NSDLĐ có phải bồi thường cho NLĐ khi chấm dứt hợp đồng vì Covid 19 không?
Tại Điều 38 Bộ luật lao động 2012 quy định người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
- Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn;
- Ít nhất 03 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.
Khoản 2 Điều 12 Nghị định 05/2015/NĐ-CP có quy định:
- Lý do bất khả kháng khác thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Do địch họa, dịch bệnh;
+ Di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
=> Theo quy định nêu trên thì vì lý do dịch Covid19, nếu NSDLĐ đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc thì NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với người lao động.
Tuy nhiên, khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ, người sử dụng lao động phải tuân thủ quy định báo trước cho NLĐ phụ thuộc vào loại hợp đồng.
Đối với trường hợp của bạn, nếu công ty đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc thì công ty bạn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ vì dịch Covid 19 nhưng phải báo trước cho bạn biết trước ít nhất 30 ngày (vì hợp đồng của bạn là hợp đồng thời hạn).
Do thông tin bạn đưa ra không cụ thể nên sẽ có các trường hợp sau đây:
- Nếu công ty đã tìm mọi biện pháp để khắc phục nhưng vẫn phải thu hẹp sản xuất, và có đảm bảo thời gian báo trước thì không phải bồi thường gì cho bạn.
- Nếu công ty vi phạm quy định về báo trước thì đã đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật.
Theo Điều 42 Bộ luật lao động 2012, nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:
- Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
- Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
- Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
- Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
- Phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
Tiền lương làm căn cứ bồi thường khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy định tại Khoản 5 Điều 42 hoặc Khoản 2 Điều 43 của Bộ luật lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động tại thời điểm người sử dụng lao động hoặc người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật