Những cựu thanh niên xung phong đã tham gia trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc, miền Nam thì cách tính khen thưởng thành tích tham gia kháng chiến như thế nào?
Theo quy định tại khoản 2, Điều 1 và khoản 1, 2, Điều 4, Chương I, Điều Lệ khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ban hành theo Nghị quyết số 47-NQ/HĐNN ngày 29/9/1981 của Hội đồng Nhà nước (nay là Chính phủ) thì thanh niên xung phong thuộc đối tượng xét khen thưởng được giảm 1/3 thời gian và 1/5 thời gian so với tiêu chuẩn chung như sau:
- Được giảm 1/3 thời gian so với tiêu chuẩn chung nếu đã phục vụ ở miền Nam, Lào hoặc Campuchia;
- Được giảm 1/5 thời gian so với tiêu chuẩn chung nếu đã phục vụ ở vùng thường xuyên có chiến sự ở miền Bắc, gồm các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và khu Vĩnh Linh.
Thời gian để tính khen thưởng cho tham gia chống Mỹ cứu nước được tính đến ngày 30-4-1975. Đối với thanh niên xung phong chỉ hoạt động ở miền Bắc phải có thời gian phục vụ từ ngày 5-8-1964 đến ngày 28-11-1973 ít nhất là 2 năm 9 tháng, nếu không đủ điều kiện thời gian trên thì được khen thấp hơn một mức so với tiêu chuẩn chung.
Ví dụ 1: Ông Phan Lê Trung, tham gia thanh niên xung phong ở tỉnh Thừa Thiên Huế từ tháng 6-1970 đến 4-1975 có thời gian là 4 năm 10 tháng thì thời gian quy đổi để tính khen thưởng là 4 năm 10 tháng x 1,5 lần thành 7 năm 3 tháng, đủ tiêu chuẩn khen thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất.
Ví dụ 2: Bà Trương Thị Mai, tham gia thanh niên xung phong ở tỉnh Hà Tĩnh từ tháng 6-1970 đến 4-1975 có thời gian là 4 năm 10 tháng thì thời gian quy đổi để tính khen thưởng là 5 năm 3 tháng, đủ tiêu chuẩn khen thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì nhưng do không đủ 2 năm 9 tháng, thời gian tham gia chiến tranh phá hoại ở miền Bắc (từ ngày 5-8-1964 đến ngày 28-11-1973) nên chỉ được xét khen thấp hơn một bậc là Bằng khen Thủ tướng Chính phủ.
Thư Viện Pháp Luật