Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Theo quy định của pháp luật lao động về HĐLĐ thì người sử dụng lao động chỉ có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động trong các trường hợp sau:
- Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
- Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 33 của Bộ luật này.
(Điểm a,b,c,d khoản 1, điều 38 BLLĐ 2012)
Trường hợp công ty ra quyết định chấm dứt HĐLĐ với Chị mà không nêu lý do và quá trình làm việc Chị cũng không vi phạm nội quy của công ty đến mức phải bị lập biên bản. Bên cạnh đó công ty cũng không chứng minh được lý do bất khả kháng để chấm dứt HĐLĐ của Chị. Như vậy quyết định trên của công ty được xem là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái quy định của pháp luật.
Chị có thể làm đơn yêu cầu cơ quan quản lý lao động địa phương nơi công ty đóng trụ sở cử hòa giải viên đến công ty để tổ chức hòa giải vu việc hoặc có thể đến Tòa an nhân dân để khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Thư Viện Pháp Luật