Có được đứng tên chung trên GCN đất với chồng là người nước ngoài?
Theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 159 Luật Nhà ở 2014, tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua các hình thức: Mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở, trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ.
Khoản 1 Điều 75 Nghị định 99/2015/NĐ-CP quy định, tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu nhà ở (bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ) trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Trường hợp bà, kết hôn với người nước ngoài, quốc tịch nước ngoài, vợ chồng bà dùng tiền là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mua nhà ở tại Việt Nam thì, cùng với các điều kiện đối với người Việt Nam mua nhà ở tại Việt Nam, bắt buộc phải tuân thủ điều kiện đối với người nước ngoài được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Theo đó, vợ chồng bà chỉ được chung nhau sở hữu nhà ở là căn hộ chung cư hoặc nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại.
Do chồng bà là người nước ngoài chưa được pháp luật Việt Nam cho phép mua nhà ở riêng lẻ ngoài dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, nên vợ chồng bà không đủ điều kiện được đứng tên chung trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Trên đây là nội dung tư vấn.
Thư Viện Pháp Luật