Vay nợ mà không trả
- Theo Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Bên cạnh đó, tại Khoản 1 Điều 119 Bộ luật này cũng quy định rằng hình thức của giao dịch dân sự có thể bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể. Như vậy, luật không có bắt buộc hợp đồng vay tài sản phải bằng văn bản nhưng văn bản là hình thức rõ ràng nhất để ghi nhận mối quan hệ phát sinh giữa hai bên. Nếu không có văn bản giấy tờ thì bạn phải có chứng cứ chứng minh việc bạn đã vay tiền thay cho người bạn đó thông qua clip, ghi âm hay tin nhắn,...
- Nếu bạn có chứng cứ chứng minh cho việc bạn vay tiền thay cho người bạn và người bạn không chịu trả lãi (không thực hiện đúng cam kết), đồng thời có hành vi bỏ trốn để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì họ có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, được quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
“ Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
…
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.”
- Bên cạnh đó, Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định:
“Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Như vậy, nếu có chứng cứ chứng minh như đã phân tích ở trên, bạn còn có thể khởi kiện yêu cầu người bạn đó thanh toán tiền vay cũng như khoản tiền lãi khi chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Như vậy, nếu trường hợp bạn có chứng cứ như tin nhắn, ghi âm,…chứng minh giữa hai người có mối quan hệ vay tài sản thì bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện. Nếu bạn chưa có chứng cứ thì bây giờ, bạn vẫn có thể gọi điện, nhắn tin hoặc gặp mặt nói chuyện rồi ghi âm,… để ghi nhận về sự tồn tại của hợp đồng vay. Đó sẽ là căn cứ để Tòa án hoặc cơ quan công an xem xét về hành vi của người đó và có biện pháp xử lý phù hợp.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về thắc mắc của bạn.
Trân trọng!
Nguyễn Thị Ân