Không nhận lại người lao động, công ty phải bồi thường ra sao?
Theo quy định tại Bộ luật lao động 2012 thì người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp sau đây:
- Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động;
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, đã điều trị 06 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động;
- Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
- Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.
Tùy vào từng loại hợp đồng cụ thể, căn cứ để chấm dứt hợp đồng lao động mà khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước ít nhất 03 ngày hoặc ít nhật 30 ngày hoặc ít nhất 45 ngày.
Trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không đúng quy định kể trên thì được xác định là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Khi đó, người sử dụng lao động có nghĩa vụ phải nhận người lao động trở lại làm việc và thực hiện trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bồi thường cho người lao động theo quy định của pháp luật.
Theo đó, theo quy định tại Điều 42 Bộ luật lao động 2012 thì người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật phải:
(1) Nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết;
(2) Trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc
(3) Trả thêm cho người lao động ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
(4) Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền kể trên và trợ cấp thôi việc, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
(5) Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
Do đó: Đối với trường hợp công ty đuổi việc bạn trái luật, bạn đã khiếu nại đến Chánh thanh tra thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và họ đã giải quyết yêu cầu công ty phải nhận tôi trở lại làm việc và trả tiền lương, bồi thường cho bạn. Nhưng công ty không nhận tôi lại làm việc theo quyết định của thanh tra, nói sẽ bồi thường cho bạn và bạn cũng không muốn trở lại công ty làm việc nên đã đồng ý.
Khi đó, công ty có nghĩa vụ trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày bạn nghỉ việc ở công ty + ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động + Trợ cấp thôi việc (đối với thời gian làm việc cho công ty trước 01/01/2009 chưa được trợ cấp thôi việc - nếu có) + tiền lương của những ngày không báo trước (nếu có) + khoản tiền bồi thường thêm do bạn và công ty thỏa thuận không thấp hơn 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Trên đây là quan điểm tư vấn của chúng tôi đối với vấn đề mà bạn đang thắc mắc.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật