Sắp bị truy tố tội đánh bạc, có được xuất cảnh?
- Điều 248 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội đánh bạc như sau:
1. Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này (điều 248) và điều 249 của bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2-7 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn;
c) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 3-30 triệu đồng.
Theo mục 6.3 phần I nghị quyết số 02/2003/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự quy định: về các tình tiết "có giá trị lớn", "có giá trị rất lớn hoặc đặc biệt lớn" quy định tại điều 248 Bộ luật hình sự được xác định như sau:
a. Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 1 triệu đồng đến dưới 10 triệu đồng là có giá trị lớn;
b. Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 10 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng là có giá trị rất lớn;
c. Tiền hoặc hiện vật có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên là có giá trị đặc biệt lớn.
Mục 9.1 nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự quy định: về việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội đánh bạc quy định tại điều 248 của Bộ luật hình sự như sau:
a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu (dưới 1 triệu đồng) để truy cứu trách nhiệm hình sự và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều 248 và điều 249 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;
b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của mỗi lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu (từ 1 triệu đồng trở lên) để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;
c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 điều 48 của Bộ luật hình sự;
Mục 9.2 nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP quy định:
a) Một lần chi số đề (đánh đề) để tính là một lần đánh bạc được hiểu là tham gia chi trong một lô đề.
b) Số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chi số đề, với nhiều người là tổng số tiền, giá trị hiện vật mà họ và những người chi khác dùng để đánh bạc.
Ví dụ: A là chủ đề của 5 người chi đề (đánh đề) khác nhau, mỗi người chi đề với số tiền là 20.000đ; nếu với tỉ lệ chi 1/70 (1 ăn 70) thì số tiền dùng để đánh bạc được xác định như sau:
Tiền dùng để đánh bạc của một người đánh đề với chủ đề A sẽ được xác định là: 1.420.000đ, gồm: 20.000đ là tiền của một người dùng để đánh bạc + 70 lần tiền của chủ đề A dùng để đánh bạc với người đánh đề đó [1.420.000 = 20.000đ + (70 x 20.000đ)].
Chiếu theo quy định pháp luật nêu trên, trường hợp người thân của bạn chỉ cần sử dụng tiền (Ađ) trong một lần đánh đề và được xác định như sau: [Ađ + (70 x Ađ) ] ≥ 1 triệu hoặc dưới 1 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều 248 và điều 249 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các tội này (tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc), chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì người thân của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo điều 248 Bộ luật hình sự.
Điều 21 nghị định số 136/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định: Công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây: 1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm.
Theo như bạn trình bày, cơ quan công an đã mời người thân của bạn đến lấy lời khai về việc đánh bạc và thông báo sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, tức là người thân của bạn có liên quan đến công tác điều tra tội phạm. Chiếu theo quy định của pháp luật, hiện nay người thân của bạn chưa được phép xuất cảnh.
Thư Viện Pháp Luật