Bị trưởng thôn cản trở việc xây dựng, tôi phải làm sao
Theo Quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, gia đình bạn được giao quyền sử dụng đất vào 2012. Tuy chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đang trong thời gian đợi huyện thực hiện thủ tục này) nhưng đã có giấy tờ xác nhận (dựa vào Quyết định giao đất). Như vậy, gia đình bạn có cơ sở để khẳng định quyền sở hữu của mình đối với quyền sử dụng đất được giao.
Năm 2014 bạn tiến hành xây dựng nhà ở, nhưng trưởng thôn và bí thư thôn ngăn cản với lý do đó không phải đất của gia đình bạn. Bạn đến UBND xã hỏi và được trả lời là phải đi “xin” hai cán bộ của xã đó (hai cán bộ này có lẽ là trưởng thôn và bí thư thôn).
Để giải đáp vấn đề của bạn chúng tôi xin có những quan điểm sau đây:
Thứ nhất việc gia đình bạn được cơ quan có thẩm quyền giao đất theo chính sách hỗ trợ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số và đời sống khó khăn là đúng theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Gia đình bạn sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ theo Khoản 4 Điều 100 Luật Đất đai 2013, và có thể được miễn nộp tiền sử dụng đất theo điểm b Khoản 1, Điều 110 Luật Đất đai 2013 và Khoản 1 Nghị định 45/2014/NĐ-CP. Như vậy có thể khẳng định quyền sử dụng đất được giao thuộc sở hữu hợp pháp của gia đình bạn. Tuy nhiên, bạn cần nhanh chóng hoàn thành thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bởi lẽ căn cứ Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý có giá trị cao nhất nhằm khẳng định quyền sở hữu. Một lưu ý nữa, đối với trường hợp của gia đình bạn, cần được xác định có thuộc trường hợp xây dựng cần được cấp giấy phép xây dựng không. Bạn liên hệ với địa chính của UBND cấp xã để biết về thông tin này. Nếu có, Trình tự, thủ tục thực hiện gia đình bạn có thể tham khảo Điều 3, Điều 8, Điều 9 Nghị định 64/2012/NĐ-CP được trích dẫn ở cuối thư tư vấn.
Thứ hai, về việc năm 2012 bạn được giao đất nhưng đến năm 2014 bạn mới có Điều kiện để xây nhà không ảnh hưởng đến quyền sở hữu của gia đình bạn, cũng không thuộc trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai. Hơn nữa, thẩm quyền thu hồi đất nếu có ở trường hợp cụ thể của gia đình bạn sẽ thuộc về UBND cấp huyện nơi có bất động sản (Khoản 2 Điều 66 Luật Đất đai 2013). Do vậy việc 2 cán bộ của thôn (là những người giữ chức danh quản lý trong thôn, tổ dân phố) nơi bạn ở ngăn cản bạn tiến hành xây dựng nhà ở với lý do không phải đất thuộc quyền sở hữu của gia đình bạn là không đúng pháp luật. Như vậy hành vi ngăn cản việc bạn xây dựng trên đất có chủ quyền hợp pháp của hai người này là hành vi cản trở, bất hợp pháp.
Để giải quyết vấn đề của bạn, chúng tôi có gợi ý như sau:
Trước hết, gia đình bạn nên làm việc lần nữa với 2 cán bộ của thôn đó về những hệ quả pháp lý có thể xảy ra nếu việc cản trở quyền sử dụng đất hợp pháp của người khác vẫn tiếp diễn (hệ quả được phân tích ở phần dưới). Trong quá trình làm việc, bạn xuất trình quyết định giao đất để khẳng định quyền sử dụng này đã thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình bạn kể từ thời điểm Quyết định giao đất có hiệu lực.
Trường hợp sau khi đã làm việc, đưa những căn cứ về mặt pháp lý như vậy nhưng 2 cán bộ thôn vẫn cản trở, bạn có thể khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản dựa vào Điều 255, Điều 259 Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005). Theo đó, khi thực hiện quyền sử dụng đất hợp pháp, người sử dụng đất có quyền yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.
Ngoài ra, căn cứ Điều 11 Nghị định 105/2009/NĐ-CP thì hai người này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền từ hai triệu đồng đến mười triệu đồng tại khu vực nông thôn, phạt tiền từ năm triệu đồng đến ba mươi triệu đồng tại khu vực đô thị do hành vi cản trở việc sử dụng đất của người khác, thẩm quyền xử phạt căn cứ theo Điều 25 Nghị định này. Thêm vào đó, nếu đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng hành vi này vẫn tiếp diễn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, bạn có thể thực hiện tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền về quản lý đất đai và công an địa phương để xử lý theo pháp luật hình sự (Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành).
Thư Viện Pháp Luật