Đối tượng và thủ tục khai thác, sử dụng tài liệu kiểm toán nhà nước
Đối tượng và thủ tục khai thác, sử dụng tài liệu kiểm toán nhà nước quy định tại Điều 37 Quyết định 2175/QĐ-KTNN năm 2014 Quy chế công tác văn thư, lưu trữ của Kiểm toán Nhà nước, cụ thể như sau:
- Hồ sơ, tài liệu lưu trữ của Kiểm toán Nhà nước, các đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước được sử dụng để phục vụ nhu cầu công tác, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu riêng chính đáng của cơ quan, đơn vị, cá nhân trong và ngoài ngành Kiểm toán Nhà nước.
- Các đơn vị, cá nhân trong ngành đến khai thác, sử dụng tài liệu vì mục đích công vụ phải có văn bản, giấy đề nghị của đơn vị và được sự đồng ý của Chánh Văn phòng Kiểm toán Nhà nước (đối với hồ sơ, tài liệu được bảo quản tại lưu trữ cơ quan Kiểm toán Nhà nước), thủ trưởng đơn vị của các Kiểm toán Nhà nước khu vực, đơn vị sự nghiệp (đối với hồ sơ, tài liệu được bảo quản tại lưu trữ của Kiểm toán Nhà nước khu vực và đơn vị sự nghiệp). Cá nhân khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ của cơ quan Kiểm toán Nhà nước vì mục đích riêng phải có đơn xin sử dụng tài liệu gửi Tổng Kiểm toán Nhà nước (thông qua Văn phòng Kiểm toán Nhà nước) xem xét, quyết định. Cá nhân khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ của các Kiểm toán Nhà nước khu vực, các đơn vị sự nghiệp vì mục đích riêng phải có đơn xin sử dụng tài liệu gửi thủ trưởng đơn vị xem xét, quyết định.
- Các cơ quan, cá nhân ngoài Kiểm toán Nhà nước đến khai thác, sử dụng, nghiên cứu tài liệu vì mục đích công vụ phải có giấy giới thiệu của cơ quan cử đến và ghi rõ mục đích nghiên cứu tài liệu và phải được sự đồng ý của Tổng Kiểm toán Nhà nước (đối với tài liệu lưu trữ của cơ quan Kiểm toán Nhà nước), thủ trưởng các Kiểm toán Nhà nước khu vực và đơn vị sự nghiệp (đối với tài liệu lưu trữ của Kiểm toán Nhà nước khu vực và đơn vị sự nghiệp).
- Việc khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ thuộc danh mục bí mật nhà nước phải được thực hiện theo Điều 9 Quyết định số 876/2006/QĐ-KTNN ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành Quy chế bảo vệ bí mật nhà nước của Kiểm toán Nhà nước.
- Các tài liệu lưu trữ thuộc danh mục tài liệu có đóng dấu chỉ các mức độ mật chỉ được sử dụng rộng rãi trong các trường hợp sau đây:
+ Được giải mật theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước;
+ Sau 40 năm, kể từ năm công việc kết thúc đối với tài liệu có đóng dấu “mật” nhưng chưa được giải mật;
+ Sau 60 năm, kể từ năm công việc kết thúc đối với tài liệu có đóng dấu “tối mật”, “tuyệt mật” nhưng chưa được giải mật.
- Trường hợp đơn vị, cá nhân mang tài liệu lưu trữ ra khỏi lưu trữ cơ quan để phục vụ công tác, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu chính đáng khác phải được sự đồng ý của Tổng Kiểm toán Nhà nước hoặc thủ trưởng đơn vị (đối với các Kiểm toán Nhà nước khu vực, đơn vị sự nghiệp) và phải hoàn trả nguyên vẹn tài liệu lưu trữ đó.
Ban biên tập phản hồi thông tin đến bạn.
Thư Viện Pháp Luật