Sắp đến tết, phạm nhân có được giảm án tù không?
Tại Điều 5 Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC có quy định:
"Điều 5. Thời điểm xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
1. Việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được thực hiện mỗi năm 03 (ba) đợt, vào các dịp: Ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), ngày Quốc khánh (2/9) và tết Nguyên đán. Đối với các trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, thực hiện việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù vào dịp ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và ngày hội quốc phòng toàn dân (22/12) thay cho dịp tết Nguyên đán.
2. Đối với những trường hợp đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà trong năm đó lại lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì việc đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù không phụ thuộc vào thời điểm quy định tại khoản 1 của Điều này."
Như vậy: Căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thi việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân được thực hiện mỗi năm 03 đợt, vào các dịp: Ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4), ngày Quốc khánh (2/9) và tết Nguyên đán.
Tuy nhiên, đối với phạm nhân thuộc các trại giam của Bộ Quốc phòng thì không xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho dịp tết Nguyên đán, mà thay vào đó sẽ được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù vào dịp ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và ngày hội quốc phòng toàn dân (22/12).
Do đó: Vào dịp tết Kỷ Hợi năm 2019 năm nay, phạm nhân thuộc các trại giam (không thuộc Bộ Quốc phòng) sẽ được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù khi đáp ứng đủ các điều kiện được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù theo quy định của pháp luật.
Các phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam thuộc Bộ Quốc phòng thì không được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù trong dịp tết Kỷ Hợi năm 2019.
Khi đó, cơ quan có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có trách nhiệm lập hồ sơ và chuyển cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án xem xét, quyết định.
Hồ sơ đề nghị gồm có:
- Bản sao bản án; trường hợp xét giảm án từ lần hai thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án;
- Văn bản của cơ quan có thẩm quyền đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù;
- Kết quả xếp loại chấp hành án phạt tù hàng tháng, quý, 06 tháng, năm; quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc phạm nhân lập công;
- Kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh tật đối với trường hợp phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo;
- Bản sao quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với trường hợp đã được giảm.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu nơi phạm nhân đang chấp hành án phải mở phiên họp xét giảm và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát phải cử Kiểm sát viên tham gia phiên họp. Trường hợp hồ sơ phải bổ sung thì thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.
Sau khi có quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người được giảm thời hạn chấp hành án, cơ quan đề nghị giảm thời hạn chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có trụ sở.
(Xem chi tiết thủ tục tại Luật thi hành án hình sự 2010 và Thông tư liên tịch 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC )
Trên đây là quan điểm tư vấn của chúng tôi đối với vấn đề mà bạn đang thắc mắc.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật