Tiền lương làm căn cứ bồi thường do vi phạm thời gian báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Tại Khoản 5 Điều 42 Bộ luật lao động 2012 quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:
"5. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước."
Tại Khoản 2 Điều 43 Bộ luật lao động 2012 quy định nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:
"2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước."
Theo đó, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật cả người lao động và người sử dụng lao động đều có trách nhiệm bồi thường một khoản tiền do vi phạm thời gian báo trước.
Tại Khoản 10 Điều 1 Nghị định 148/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật lao động, có hiệu lực vào ngày 15/12/2018, tiền lương làm căn cứ bồi thường khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:
"Tiền lương làm căn cứ bồi thường khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo quy định tại Khoản 5 Điều 42 hoặc Khoản 2 Điều 43 của Bộ luật lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động tại thời điểm người sử dụng lao động hoặc người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.”
Như vậy tiền lương làm căn cứ bồi thường vi phạm thời gian báo trước khi đơn phương chấm dứt hơp đồng trái pháp luật là tiền lương theo hợp đồng lao động tại thời điểm chấm dứt hợp đồng.
Trên đây là nội dung quy định về tiền lương làm căn cứ bồi thường do vi phạm thời gian báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Trân trọng!
Hồ Văn Ngọc