Đăng ký bào chữa, đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Tại Điều 12 Thông tư liên tịch 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tài chính - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành thì nội dung này được quy định như sau:
Đăng ký bào chữa, đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Trong tố tụng hình sự, việc đăng ký bào chữa được thực hiện như sau:
a) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư ký hợp đồng với Trung tâm xuất trình Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm hoặc Chi nhánh;
b) Luật sư của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử luật sư của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý nơi luật sư đó hành nghề, làm việc;
c) Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra giấy tờ, nếu thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa.
2. Trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện như sau:
a) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư ký hợp đồng với Trung tâm xuất trình Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư và văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm hoặc Chi nhánh;
b) Luật sư của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý xuất trình Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý nơi luật sư đó hành nghề, làm việc;
c) Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều này, Tòa án phải vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và gửi lại cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, nếu thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
3. Trường hợp trợ giúp viên pháp lý, luật sư không trực tiếp xuất trình các giấy tờ nêu tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 Điều này để đăng ký bào chữa, tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều này để đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì họ phải gửi cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bản sao có chứng thực Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc bản sao có chứng thực Thẻ luật sư và văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý.
Trân trọng!
Hồ Văn Ngọc