Trách nhiệm của cán bộ, công chức Viện kiểm sát trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố

Chào Ban biên tập, tôi đang tìm hiểu quy định của pháp luật về quyền hạn và nghĩa vụ của Viện kiểm sát nhân dân, có thắc mắc tôi mong nhận phản hồi từ Ban biên tập, cụ thể: Trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố được quy định như thế nào?

Trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố được quy định tại Điều 4 Quyết định 03/QĐ-VKSTC năm 2017 về Quy chế tạm thời Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành, cụ thể như sau:

1. Viện tr­ưởng, Phó Viện trư­ởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định tại các Điều 41, 42, 43, quy định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự về khởi tố, điều tra, truy tố, các quy định pháp luật khác có liên quan.

2. Khi đ­ược phân công thụ lý giải quyết vụ việc, vụ án hình sự, Kiểm sát viên có trách nhiệm quản lý hồ sơ vụ việc, hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Khi báo cáo đề xuất các vấn đề thuộc công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố với lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải báo cáo trung thực, chính xác, đầy đủ nội dung vụ việc, tiến độ giải quyết và đề xuất quan điểm xử lý bằng văn bản.

3. Lãnh đạo Viện có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố; xem xét, quyết định các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ việc, vụ án hình sự theo quy định của pháp luật, Quy chế này và các quy định khác có liên quan.

Sau khi nghe Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất giải quyết vụ việc, vụ án, lãnh đạo Viện phải ghi rõ ý kiến chỉ đạo vào văn bản đề xuất của Kiểm sát viên; nếu thấy cần thiết thì trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra chứng cứ trong hồ sơ hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, hoạt động điều tra trước khi cho ý kiến chỉ đạo. Văn bản đề xuất phải ghi rõ ngày, tháng, năm, ký tên lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên và l­ưu hồ sơ kiểm sát.

Trong quá trình giải quyết vụ việc, vụ án, nếu có ý kiến khác nhau giữa các Kiểm sát viên hoặc giữa Kiểm sát viên với Phó Viện trưởng, Viện trưởng thì thực hiện theo quy định tại Điều 83 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Kiểm sát viên thụ lý chính với lãnh đạo đơn vị thì phải thực hiện ý kiến của lãnh đạo đơn vị, nhưng có quyền báo cáo với Phó Viện trưởng phụ trách; nếu có ý kiến khác nhau giữa lãnh đạo đơn vị với Phó Viện trưởng thì phải thực hiện ý kiến của Phó Viện trưởng, nhưng có quyền báo cáo với Viện trưởng. Kết luận của Viện trưởng, Phó Viện trưởng được ghi vào báo cáo của đơn vị và lư­u hồ sơ kiểm sát.

Đối với vụ án nghiêm trọng, phức tạp, án trọng điểm, Viện tr­ưởng có thể đ­ưa ra tập thể lãnh đạo Viện hoặc Ủy ban kiểm sát thảo luận trước khi kết luận. Đối với vụ, việc Viện kiểm sát cấp dư­ới thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị thực hiện theo Quy chế về chế độ thông tin, báo cáo và quản lý công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 279/QĐ-VKSTC ngày 01/8/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

4. Khi phát hiện có sai sót về nghiệp vụ hoặc vi phạm pháp luật thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải có biện pháp khắc phục ngay và tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, xử lý trách nhiệm ng­ười vi phạm theo quy định của pháp luật.

Ban biên tập xin phản hồi thông tin đến bạn. 

 

 

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Công chức

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào