Đề xuất chủ trương đàm phán và ký điều ước quốc tế
Việc đề xuất chủ trương đàm phán và ký điều ước quốc tế được quy định tại Điều 2 Nghị định 161/1999/NĐ-CP thi hành Pháp lệnh về Ký kết và thực hiện Điều ước quốc tế như sau:
1. Các cơ quan hữu quan căn cứ vào chức năng nhiệm vụ, quyền hạn được phân công, nhu cầu hợp tác quốc tế, chủ động đề xuất với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chủ trương đàm phán và ký điều ước quốc tế (dưới đây gọi tắt là cơ quan đề xuất ký).
2. Cơ quan đề xuất ký có trách nhiệm xây dựng dự thảo điều ước quốc tế của phía Việt Nam.
Trong trường hợp điều ước quốc tế do Bên nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đề nghị hoặc dự thảo thì cơ quan đề xuất ký nghiên cứu dự thảo đó để tiến hành xây dựng dự thảo của phía Việt Nam.
3. Trong quá trình đề xuất đàm phán và ký điều ước quốc tế, tuỳ theo tính chất và nội dung của vấn đề, cơ quan đề xuất ký lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành hữu quan ít nhất 15 ngày trước khi trình Chính phủ. Đối với những điều ước quốc tế có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội hoặc ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành thì thời hạn nói trên ít nhất là 30 ngày.
4. Văn bản xin ý kiến bao gồm các nội dung quy định tại các điểm a, b, c, đ và e khoản 4 Điều 5 Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế (dưới đây gọi là Pháp lệnh). Đối với các điều ước quốc tế nhiều Bên, văn bản xin ý kiến bao gồm các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 12 của Pháp lệnh.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được công văn xin ý kiến, cơ quan được hỏi ý kiến có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho cơ quan đề xuất ký về ý kiến của mình đối với dự thảo điều ước quốc tế.
5. Cơ quan đề xuất ký có trách nhiệm nghiên cứu ý kiến của các cơ quan hữu quan, hoàn thiện dự thảo điều ước quốc tế trình Chính phủ. Sau khi nghiên cứu ý kiến của các cơ quan hữu quan, nếu thấy dự thảo điều ước quốc tế cần được thẩm định, cơ quan đề xuất ký phải gửi dự thảo điều ước quốc tế đó cho Bộ Tư pháp để thẩm định.
Trên đây là nội dung quy định về việc đề xuất chủ trương đàm phán và ký điều ước quốc tế. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, bạn nên tham khảo thêm tại Nghị định 161/1999/NĐ-CP.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật