Ông Nguyễn Quang Lộc [email protected] h ỏi Kính gửi Sở TNMT! Chúng tôi là chủ của 31 căn hộ trong tòa nhà A2, chung cư 151A, Nguyễn Đức Cảnh, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Qua hợp đồng mua bán căn hộ chung cư với Công ty cổ phần 118, nay là Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng hạ tầng Alphanam chúng tôi đã sở hữu 31 căn hộ nói trên được hơn 5 năm, tuy nhiên đến nay chúng tôi vẫn chưa được cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở”. Chúng tôi đã nhiều lần yêu cầu Bên bán (Công ty cổ phần 118) thực hiện đúng cam kết theo khoản 2, điều 5 của Hợp đồng mua bán chung cư: “Bên bán có trách nhiệm bàn giao giấy tờ hợp pháp chứng nhận quyền sở hữu căn hộ cho Bên mua sau khi Bên mua thanh toán đủ 100% giá trị hợp đồng”. Nhưng đến nay Công ty 118 vẫn chưa cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở” với các lý do: - Công ty cổ phẩn 118 đã tiến hành làm thủ tục cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở” cho các hộ dân nhiều đợt, tuy nhiên do 31 hộ còn lại chưa nộp hồ sơ hoặc hồ sơ không đầy đủ nên các hộ này phải tự tiến hành các thủ tục xin cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở”. - Công ty cổ phần 118 – Chủ đầu tư dự án nhà ở 151 A, Nguyễn Đức Cảnh đã giải thể, không lưu giữ hồ sơ, không có tư cách pháp nhân, không còn con dấu vì vậy không thể làm thủ tục cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở” cho 31 hộ dân còn lại. Vì lý do trên, chúng tôi đã chủ động lập hồ sơ xin cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở”, tuy nhiên do không có được những giấy tờ theo quy định của pháp luật do Bên bán cung cấp nên chúng tôi không thể hoàn thiện hồ sơ xin cấp “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở”. Căn cứ Nghị quyết số: 30/2012/QH13 của Quốc hội về cấp Giấy Chứng nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn với đất (GCN) vào ngày 21/6/2012, chúng tôi đã mang hồ sơ xin cấp quyền sở hữu nhà lên nộp trên Phòng Địa chính phường Tương Mai, tuy nhiên Phòng Địa chính phường Tương Mai không tiếp nhận với lý do: Phường chưa nhận bàn giao bất cứ hồ sơ (mặt bằng, sơ đồ...) về khu nhà Momota (Alphanam) nên phường không được phép thụ lý hồ sơ, phường chỉ thụ lý hồ sơ của những khu nhà khi có bàn giao của quận. Là chủ sở hữu hợp pháp của những căn hộ nêu trên và luôn hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ thuế với nhà nước, chúng tôi kính mong Sở Tài nguyên môi trường Hà nội hướng dẫn các thủ tục cần thiết để chúng tôi có được “Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở” theo đúng quy định của pháp luật. Mong sớm nhận được hồi âm của Quý cơ quan!
Hồ sơ và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua nhà ở của doanh nghiệp đầu tư xây dựng để bán được thực hiện theo quy định tại Điều 35 Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 24/4/2013 của UBND Thành phố Hà Nội ban hành quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; đăng ký biến động về sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Theo quy định tại Điều 35 Quyết định số 13/QĐ-UBND ngày 24/4/2013 của UBND Thành phố Hà Nội thì doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở, công trình xây dựng để bán; chủ đầu tư dự án phát triển nhà ở xã hội có trách nhiệm nộp thay người đề nghị cấp Giấy chứng nhận một (01) bộ hồ sơ tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội.
Trường hợp ông Lộc có nêu bên bán nhà chủ đầu tư đã giải thể, tại Mục g điểm 3 Văn bản số 2470/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 17/7/2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường thống nhất thực hiện một số giải pháp đẩy nhanh việc cấp Giấy chứng nhận tại các dự án phát triển nhà ở có hướng dẫn “Trường hợp chủ đầu tư được giao đất và đã xây dựng, bán xong nhà ở hoặc đã chuyển nhượng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân và đã giải thể hoặc chủ đầu tư được giao đất nhưng không thực hiện dự án mà đã chuyển nhượng đất cho cán bộ, nhân viên cơ quan, tổ chức nhà nước để tự xây dựng nhà ở mà không có hợp đồng chuyển nhượng nhà đất theo quy định thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trực tiếp nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp quận để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại Điều 50 của Luật Đất đai và Điều 14 hoặc Điều 16 của Nghị định số 88/2009/NĐ-CP”.