Hình thức và đối tượng áp dụng ưu đãi đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994
Theo quy định tại Chương 3 Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 1994 thì hình thức và đối tượng áp dụng ưu đãi đầu tư được quy định cụ thể như sau:
Điều 9
Các dự án đầu tư sau đây được ưu đãi:
1- Đầu tư vào các lĩnh vực:
a) Trồng rừng, trồng cây lâu năm trên đất chưa sử dụng, đất trống, đồi núi trọc; nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nước chưa được khai thác; đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ;
b) Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật; phát triển vận tải công cộng đô thị; phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc; nghiên cứu khoa học, công nghệ;
c) Chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản; các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp;
d) Sản xuất hàng xuất khẩu;
đ) Các ngành công nghiệp cần ưu tiên trong từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội; các ngành, nghề truyền thống;
2- Đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác;
3- Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ hiện đại, cơ sở sản xuất sử dụng nhiều lao động.
Chính phủ quy định danh mục ngành, nghề của từng lĩnh vực, phạm vi các vùng, tiêu chuẩn về công nghệ và quy mô sử dụng lao động được hưởng ưu đãi đầu tư, theo quy hoạch và định hướng phát triển của Nhà nước.
Điều 10
Ngoài chế độ ưu đãi được quy định trong các luật, pháp lệnh về thuế hiện hành, các dự án đầu tư quy định tại Điều 9 của Luật này được hưởng thêm các ưu đãi về thuế như sau:
1- Cơ sở sản xuất, kinh doanh mới thành lập được giảm 50% (năm mươi phần trăm) thuế lợi tức thêm từ một đến hai năm; riêng đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác, được miễn thuế lợi tức thêm từ một đến hai năm, giảm 50% (năm mươi phần trăm) thuế lợi tức thêm từ một đến năm năm và giảm 50% (năm mươi phần trăm) thuế doanh thu thêm từ một đến hai năm;
2- Cơ sở sản xuất, kinh doanh bỏ thêm vốn đầu tư hoặc sử dụng lợi nhuận còn lại để tái đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ được miễn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tăng thêm của năm tiếp theo do phần đầu tư mới này mang lại;
3- Các dự án đầu tư cần đặc biệt khuyến khích được Chính phủ cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, phụ tùng mà chủ đầu tư trực tiếp hoặc uỷ thác nhập khẩu để xây dựng cơ sở sản xuất. Trong trường hợp sử dụng sai mục đích thiết bị, máy móc, phụ tùng được miễn thuế nhập khẩu, thì chủ đầu tư phải truy nộp số thuế nhập khẩu đã được miễn và bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật;
4- Lợi nhuận được chia từ hình thức đầu tư quy định tại điểm 3 Điều 4 của Luật này được miễn thuế thu nhập hoặc thuế lợi tức trong thời hạn ba năm, kể từ khi lợi nhuận được chia lần đầu.
Chính phủ quy định cụ thể các mức ưu đãi đầu tư.
Điều 11
Chủ đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới theo quy định tại Điều 9 của Luật này bảo đảm có hiệu quả, thì được ưu tiên xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn từ các quỹ hỗ trợ đầu tư; riêng thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh mới bảo đảm có hiệu quả tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác được ưu tiên xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn với lãi suất ưu đãi từ các quỹ hỗ trợ đầu tư.
Cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên phát triển được bảo lãnh tín dụng và cấp tín dụng xuất khẩu.
Trên đây là nội dung tư vấn về hình thức và đối tượng áp dụng ưu đãi đầu tư theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 1994. Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn nên tham khảo thêm tại Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 1994.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật