Hướng dẫn thủ tục nhập khẩu ba lô và túi xách chưa đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam
Căn cứ Khoản 2 Điều 16 Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/03/2015 của Bộ Tài chính quy định quy định về hồ sơ hảI quan thì không yêu cầu nộp “giấy đăng ký nhãn hiệu”.
Căn cứ Điều 217 Luật Sở hữu trí tuệ 50/2005/QH11 ngày 29/11/2005 quy định:
“Điều 217. Nghĩa vụ của ngườI yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ
1. NgườI yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chứng minh mình là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ bằng các tài liệu, chứng cứ quy định tạI khoản 2 Điều 203 của Luật này;
b) Cung cấp đầy đủ thông tin để xác định hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
c) Nộp đơn cho cơ quan hảI quan và nộp phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
d) BồI thường thiệt hạI và thanh toán các chi phí phát sinh cho ngườI bị áp dụng biện pháp kiểm soát trong trường hợp hàng hoá bị kiểm soát không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.”
Đối chiếu quy định nêu trên thì “giấy đăng ký nhãn hiệu” là một trong những chứng cứ, tài liệu chứng minh mình là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ nộp cho cơ quan Hải quan khi công ty có yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm soát hàng hóa bị làm giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ.
Do đó, công ty có thể nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ Trung Quốc về bán tại Việt Nam mà không cần đăng ký nhãn hiệu trước.
Thư Viện Pháp Luật