Ô tô gây tai nạn rồi bỏ trốn bị xử lý thế nào?
Theo quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP thì “ Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe tài sản của người khác” mà làm chết một người thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự, tức là có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
Nội dung Khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự: " Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm
Tuy nhiên, trong trường hợp bạn nêu, lái xe gây tai nạn khi say rượu và sau khi gây tai nạn lại bỏ chạy để trốn trách nhiệm thì hành vi phạm tội lại có tới hai tình tiết định khung quy định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự là phạm tội “Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác” và gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm..” nên lái xe sẽ bị xử phạt tù từ 3 năm đến 10 năm.
Nội dung Khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ cụ thể như sau:
"Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng."
Về chiếc xe gây tai nạn: Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự thì trong vụ án giao thông nói trên, chiệc ô tô gây tai nạn được coi là vật chứng của vụ án. Khoản 3 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về việc xử lý vất chứng cũng có quy định cho phép " Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền... có quyền trả lại những vật chứng... cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng việc xử lý vụ án".
Thư Viện Pháp Luật