Chế độ bồi thường cho người lao động khi bị chấm dứt hợp đồng lao động
- Tại khoản 3, Điều 39 và khoản 3, Điều 155 Bộ luật Lao động hiện hành quy định: Người sử dụng lao động (NSDLĐ) không được sa thải hay đơn phương chấm dứt HĐLĐ đối với lao động nữ khi đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp NSDLĐ là cá nhân chết, bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc NSDLĐ không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động. Ngoài ra, tại khoản 3, Điều 36 BLLĐ quy định: HĐLĐ chấm dứt trong trường hợp hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng.
Như vậy, căn cứ các quy định nói trên, theo các thông tin mà bà cung cấp, bà là lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, do đó, ngân hàng sẽ không được sa thải hay đơn phương chấm HĐLĐ đối với bà. Tuy nhiên, trong trường hợp hai bên đạt được thỏa thuận về việc chấm dứt hợp đồng thì pháp luật công nhận sự thỏa thuận đó và HĐLĐ sẽ chấm dứt. Khi chấm dứt HĐLĐ bà sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc theo quy định tại điều 48 cỉa Bộ Luật Lao động năm 2012.
Theo các quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 47 BLLĐ 2012 thì: Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt HĐLĐ, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. NSDLĐ có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà NSDLĐ đã giữ lại của người lao động.
Khi HĐLĐ chấm dứt trong trường hợp nói trên, nếu bà có đủ các điều kiện để hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Điều 81 Luật BHXH 2006, bà sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả. Mức trợ cấp thất nghiệp và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được thực hiện theo quy định tại Điều 82 Luật BHVXH 2006.
Thư Viện Pháp Luật