Người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải cam đoan những vấn đề gì?

Người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú phải cam đoan những vấn đề gì? Xin chào Ban biên tập thư Ký Luật. Vừa qua, tôi có theo dõi diễn biến quá trình xét xử hoa hậu Phương Nga về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong đó, ở phiên tòa gần nhất, tôi được biết cô hoa hậu này đã tạm thời được tại ngoại đồng thời bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo đó, cô này phải viết giấy cam đoan. Tôi thắc mắc không biết, nội dung của tờ cam đoan gồm những vấn đề gì? Nội dung này được quy định tại văn bản nào? Rất mong Ban biên tập trả lời giúp tôi. Xin chân thành cảm ơn! Nguyệt Nga (0908****)

Các nội dung cam đoan của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định tại Khoản 2 Điều 123 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Theo đó, bị can, bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:

a) Không đi khỏi nơi cư trú nếu không được cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho phép;

b) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

c) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;

d) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.

Liên quan đến nội dung này, chúng tôi xin mở rộng thêm một số thông tin để bạn nắm rõ hơn vấn đề như sau:

Theo quy định pháp luật hiện hành, cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.

Về thẩm quyền, pháp luật hiện hành quy định những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại Khoản 1 Điều 113 của Bộ luật tố tụng hình sự, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Đồn trưởng Đồn biên phòng có quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc đơn vị quân đội đó để quản lý, theo dõi họ.

Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc đơn vị quân đội quản lý họ và phải có giấy cho phép của người đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Nếu bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú, đơn vị quân đội đang quản lý bị can, bị cáo phải báo ngay cho cơ quan đã ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú biết để xử lý theo thẩm quyền.

Trên đây là nội dung tư vấn về các nội dung cam đoan của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Để hiểu chi tiết vấn đề này, bạn vui lòng tham khảo thêm tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Trân trọng!

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Nơi cư trú

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào