Người phiên dịch trong vụ án hình sự có những quyền gì?
Đối với thắc mắc của bạn, trước hết cần xác định: Người phiên dịch là người có khả năng phiên dịch và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt.
Quyền của người phiên dịch được quy định tại Khoản 2 Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Cụ thể bao gồm:
a) Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
b) Đề nghị cơ quan yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
c) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc phiên dịch, dịch thuật;
d) Được cơ quan yêu cầu chi trả thù lao phiên dịch, dịch thuật và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình (Điều 24 Bộ luật Tố tụng Hình sự), trong trường hợp này phải có phiên dịch.
Như vậy, người phiên dịch là một trong những người tham gia tố tụng, họ có vai trò tương đối quan trọng trong việc bảo đảm tính xác thực và tính hợp pháp của chứng cứ. Nếu người phiên dịch dù cố ý hay vô ý phiên dịch không đầy đủ, không đúng nội dung của các thông tin trong ngôn ngữ của người tham gia tố tụng ra tiếng (hoặc chữ) Việt thì sẽ làm giảm hoặc làm mất tính xác thực của thông tin. Chính vì tầm quan trọng như vậy của người phiên dịch trong việc bảo đảm giá trị chứng minh của chứng cứ nên pháp luật tố tụng hình sự hiện hành qui định “người phiên dịch” là người tham gia tố tụng chứ không phải là người tiến hành tố tụng. Theo pháp luật tố tụng hình sự, người tiến hành tố tụng là người có trách nhiệm chứng minh, do vậy họ không thể đồng thời làm thêm nhiệm vụ của người phiên dịch vì như vậy sẽ không bảo đảm tính khách quan của chứng cứ. Nói cách khác, để bảo đảm tính xác thực, tính khách quan của chứng cứ thì trong những trường hợp phải có người phiên dịch, người phiên dịch phải là một người khác, không phải là người tiến hành tố tụng của vụ án đó.
Bên cạnh các quyền nêu trên, trong quá trình tham gia tố tụng, người phiên dịch cũng đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ:
- Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
- Phiên dịch, dịch thuật trung thực. Nếu phiên dịch, dịch thuật gian dối thì người phiên dịch, người dịch thuật phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự;
- Giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi phiên dịch, dịch thuật;
- Phải cam đoan trước cơ quan đã yêu cầu về việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra, trong một số tình huống đặc biệt, để đảm bảo tính khách quan trong quá trình tố tụng, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:
- Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo;
- Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản trong vụ án đó;
- Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó.
Việc thay đổi người phiên dịch do cơ quan yêu cầu phiên dịch quyết định. Các quy định trên cũng đồng thời áp dụng đối với người dịch thuật.
Trên đây là nội dung tư vấn về quyền của người phiên dịch trong vụ án hình sự. Hy vọng chúng tôi đã giải đáp được thắc mắc của bạn. Bạn lưu ý để tuân thủ đúng quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bản thân trong quá trình tham gia tố tụng với tư cách người phiên dịch. Để hiểu chi tiết vấn đề này, bạn vui lòng tham khảo thêm tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật