Quyền hạn điều tra của cơ quan Cảnh sát bảo vệ trong hoạt động điều tra hình sự
Quyền hạn điều tra của cơ quan Cảnh sát bảo vệ trong hoạt động điều tra hình sự được quy định tại Khoản 5 Điều 25 Thông tư 28/2014/TT-BCA về công tác điều tra hình sự trong Công an nhân dân. Cụ thể là:
Cục Cảnh sát bảo vệ, phòng Cảnh sát bảo vệ trong khi làm nhiệm vụ mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm quy định tại các điều 245, 257, 305, 306, 311, và 312 của Bộ luật hình sự năm 1999 thì Cục trưởng Cục Cảnh sát bảo vệ, Trưởng phòng phòng Cảnh sát bảo vệ ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan Cảnh sát điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 (bảy) ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Cục Cảnh sát bảo vệ, phòng Cảnh sát bảo vệ là cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra, tuy không phải là cơ quan chuyên trách trong hoạt động điều tra hình sự nhưng các cơ quan này được pháp luật giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cục Cảnh sát bảo vệ, phòng Cảnh sát bảo vệ khi làm nhiệm vụ thuộc lĩnh vực quản lý phát hiện hoặc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm gây rối trật tự công cộng; tội chống người thi hành công vụ; tội không thi hành án; tội cản trở việc thi hành án; tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử; tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử thì ra quyết định khởi tố vụ án, lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.
Trên đây là nội dung tư vấn về quyền hạn điều tra của cơ quan Cảnh sát bảo vệ trong hoạt động điều tra hình sự. Để biết thêm thông tin chi tiết, bạn nên tham khảo thêm thông tin tại Thông tư 28/2014/TT-BCA.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật