Làm sao xác định nhà mua theo chế độ là tài sản chung hay tài sản riêng?
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận”.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cũng kế thừa quy định tại Điều 33: “Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.
Mặc dù chế độ mua nhà là của anh ấy, nhưng điều kiện mua nhà là “có gia đình nhưng còn khó khăn về nhà ở”…
Như vậy, thông qua quy định này, chính sách hỗ trợ về nhà ở cho cả hai vợ chồng chứ không phải một mình anh ấy.
Mặt khác, số tiền mua nhà cũng là tài sản chung của hai vợ chồng; quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn là tài sản chung theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình nên căn nhà này là của chung vợ chồng chị.
Khi đăng ký Giấy chứng nhận quyền sở hữu, anh chị có quyền thỏa thuận đứng tên cả hai vợ chồng hay chỉ một người đứng tên nhưng không làm ảnh hưởng đến chế độ tài sản chung của vợ chồng.
Thư Viện Pháp Luật