Các trường hợp được xem xét, xác nhận liệt sĩ
Thủ tục xác nhận liệt sĩ được quy định tại Điều 4 Thông tư 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, theo đó những trường hợp hy sinh từ ngày 31/12/1994 trở về trước, nếu đã được ghi trong Giấy báo tử trận; Huân chương; Huy chương; Giấy chứng nhận đeo Huân chương; Giấy chứng nhận đeo Huy chương; Bảng vàng danh dự; Bảng gia đình vẻ vang; danh sách liệt sĩ lưu trữ tại các trung đoàn và tương đương trở lên; lịch sử Đảng bộ cấp xã trở lên được các cơ quan Đảng có thẩm quyền thẩm định và đã xuất bản; báo cáo hàng năm từ trước năm 1995 của các cấp uỷ đảng được lưu giữ tại cơ quan có thẩm quyền của Đảng là liệt sĩ thì được xem xét, xác nhận liệt sĩ.
Ngoài ra, những trường hợp hy sinh trong chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu, nếu có danh sách liệt sĩ lưu tại cơ quan, đơn vị có ghi tên người hy sinh, hoặc giấy tờ, tài liệu có giá trị pháp lý lập từ ngày 31/12/1994 trở về trước có ghi nhận là liệt sĩ hoặc hy sinh trong chiến đấu, trực tiếp phục vụ chiến đấu hoặc đã được chính quyền và nhân dân suy tôn đưa vào an táng trong nghĩa trang liệt sĩ nơi hy sinh, được gắn bia mộ liệt sĩ từ ngày 31/12/1994 trở về trước thì được xem xét xác nhận liệt sĩ theo Thông tư liên tịch 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP ngày 22/10/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Quốc phòng.
Thẩm quyền cấp giấy báo tử và lập hồ sơ xác nhận liệt sĩ được quy định tại Điều 18 Nghị định 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 của Chính phủ. Theo đó, nếu người hy sinh là quân nhân, công nhân viên quốc phòng do cơ quan quân đội cấp giấy báo tử và lập hồ sơ đề nghị xác nhận liệt sĩ.