Thời gian tính phụ cấp công tác lâu năm
Ngày 24/12/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 116/2010/NĐ-CP về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch 08/2011/TTLT-BNV-BTC ngày 31/8/2011 của Liên Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính đã hướng dẫn đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức, viên chức và người làm việc theo chế độ HĐLĐ, kể cả người tập sự, thử việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định 116/2010/NĐ-CP như sau:
- Cán bộ, công chức (kể cả người tập sự) và người làm việc theo chế độ HĐLĐ hưởng lương từ ngân sách nhà nước làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Viên chức (kể cả người tập sự, thử việc) và người làm việc theo chế độ HĐLĐ hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp theo quy định cùa pháp luật, làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội;
- Cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn quy định tại Khoản 3, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức 2008;
- Người làm công tác cơ yếu trong tổ chức cơ yếu.
Phụ cấp công tác lâu năm
Phụ cấp công tác lâu năm ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định tại Điều 5 Nghị định 116/2010/NĐ-CP, được hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch 08/2011/TTLT-BNV-BTC như sau: Thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là tổng thời gian làm việc có đóng BHXH bắt buộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nếu có thời gian đứt quãng thì được cộng dồn.
- Mức 0,5 so với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với người có thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 5 năm đến dưới 10 năm;
- Mức 0,7 so với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với người có thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 10 năm đến dưới 15 năm;
- Mức 1,0 so với mức lương tối thiểu chung áp dụng đối với người có thời gian thực tế làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ đủ 15 năm trở lên.
Nếu sự việc đúng như bà Ngô Thị Dung phản ánh, thì bà Dung có diễn biến quá trình công tác, đóng BHXH như sau:
Từ năm 2012, UBND huyện có văn bản đồng ý cho bà Dung làm việc theo chế độ HĐLĐ, thời hạn 12 tháng ký lại 1 lần, với chức danh Tư pháp - Hộ tịch ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Đến tháng 1/2015, bà Dung trúng tuyển công chức chức danh Tư pháp - Hộ tịch tiếp tục làm việc tại xã đó.
Hướng dẫn tại Điểm c Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch 08/2011/TTLT-BNV-BTC chỉ nêu cán bộ, công chức mà không nêu người làm việc theo chế độ HĐLĐ tại xã, phường, thị trấn thuộc đối tượng được áp dụng chính sách tại Nghị định 116/2010/NĐ-CP, là do chế độ HĐLĐ tại xã, phường, thị trấn thường chỉ áp dụng đối với những người hoạt động không chuyên trách.
Trường hợp bà Dung được UBND huyện ra văn bản đồng ý thực hiện chế độ HĐLĐ với chức danh Tư pháp – Hộ tịch ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, được xếp lương như công chức hành chính theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP, có đóng BHXH bắt buộc, tương tự như trường hợp người làm việc theo chế độ HĐLĐ trong các cơ quan và đơn vị sự nghiệp Nhà nước cấp huyện quy định tại Điểm a Điểm b Khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch 08/2011/TTLT-BNV-BTC, thuộc đối tượng áp dụng chính sách Nghị định 116/2010/NĐ-CP.
Vì vậy, thời gian bà Dung đã làm việc chuyên trách theo hợp đồng đến khi trúng tuyển công chức, cần được xem xét cộng nối với thời gian là công chức, để tính hưởng chế độ phụ cấp công tác lâu năm theo quy định tại Điều 5 Nghị định 116/2010/NĐ-CP được hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch 08/2011/TTLT-BNV-BTC.