Nhận tiền của người tình không cấu thành tội 'lạm dụng'
Dựa trên thông tin bạn cung cấp, người đàn ông ngoại quốc đã tự nguyện chuyển số tiền 16.000 USD vào tài khoản của bạn mà không yêu cầu điều kiện gì kèm theo và bạn đồng ý nhận số tiền đó. Như vậy, giữa bạn và người đàn ông này đã giao kết và hoàn thành việc thực hiện hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định tại Điều 465 Bộ luật dân sự.
Đối tượng của hợp đồng tặng cho tài sản này là tiền nên theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự, hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản.
Như vậy, kể từ thời điểm khoản tiền nói trên được chuyển vào tài khoản của bạn, hợp đồng tặng cho tài sản giữa bạn và người đàn ông ngoại quốc có hiệu lực, từ đó phát sinh quyền sở hữu của bạn đối với số tiền 16.000 USD. Do phía người tặng tiền cho bạn không yêu cầu bạn phải đền bù hoặc có điều kiện nào khác kèm theo nên trong trường hợp cụ thể này, bạn không có nghĩa vụ trả lại khoản tiền đã nhận cho bên tặng cho.
Điều 140 Bộ luật hình sự quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó và mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Trong trường hợp của bạn, hợp đồng tặng cho có hiệu lực đã làm phát sinh quyền sở hữu của bạn đối với số tiền 16.000 USD, nếu bạn không thực hiện những hành vi phạm tội nêu trên thì trong giao dịch giữa bạn và người đàn ông ngoại quốc không có dấu hiệu cấu thành tội "lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Ngoài ra, nếu bạn cũng không có“thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác” thì giao dịch giữa bạn và người đàn ông kia cũng không có dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự.
Nếu người đàn ông kia tố cáo bạn trước cơ quan có thẩm quyền, bạn cần hợp tác để làm rõ sự việc. Trong trường hợp này, bạn có quyền mời luật sư để tư vấn pháp luật cho bạn trong quá trình giải quyết tố cáo. Nếu cơ quan điều tra chứng minh được bạn có một trong các hành vi đã viện dẫn ở trên và khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bạn, bạn có quyền mời luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình theo quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự.
Thư Viện Pháp Luật