Phạm tội trong trường hợp phòng vệ chính đáng

Phạm tội trong trường hợp phòng vệ chính đáng được pháp luật quy định như thế nào?

Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có những quy định riêng về chế định này tùy thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi nước. Trong Bộ luật hình sự nước ta, phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 15 với nội dung:“Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình và của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên”. Luật hình sự của một số nước gọi đây là phòng vệ cần thiết ( Điều 38 Bộ luật hình sự của Liên bang Nga ). Bộ luật hình sự năm 1999 đã không dùng thuật ngữ tương xứng mà thay vào đó là thuật ngữ cần thiết tuy không làm thay đổi bản chất của chế định phòng vệ chính đáng nhưng cũng làm cho việc vận dụng chế định này trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả hơn.
 
Cho đến nay, đã có nhiều nhà khoa học, các cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm đến chế định phòng vệ chính đáng trong luật hình sự, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc tạp chí chuyên ngành bàn về phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện chế định luật hình sự cho đến nay vẫn là vấn đề nhiều người quan tâm và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm nhiều trường hợp có nhiều ý kiến khác nhau nên dẫn đến các quyết định khác nhau.
 
Tuy nhiên, qua việc tổng kết thực tiễn xét xử, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/1/1986 hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, trong đó tại mục II có đề cập đến chế định phòng vệ chính đáng. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, Tòa án nhân dân tối cao cũng có Chỉ thị số 07 ngày 22-12-1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Tinh thần của Chỉ thị 07 vẫn còn phù hợp với quy định của Điều 15 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đầy đủ các dấu hiệu sau đây:
 
- Hành vi xâm hại những lợi ích cần phải bảo vệ phải là hành vi phạm tội hoặc rõ ràng là có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội;
 
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thực sự và ngay tức khắc cho những lợi ích cần thiết phải bảo vệ;
 
- Phòng vệ chính đáng không chỉ gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công, mà còn có thể tích cực chống lại sự xâm hại, gây thiệt hại cho chính người xâm hại;
 
- Hành vi phòng vệ cần thiết với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
 
Cần thiết không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ.
 
Để xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không, có rõ ràng là quá đáng hay không, thì phải xem xét toàn diện những tình tiết có liên quan đến hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ như: khách thể cần bảo vệ; mức độ thiệt hại do hành vi xâm hại có thể gây ra hoặc đã gây ra và do hành vi phòng về gây ra; vũ khí, phương tiện, phương pháp mà hai bên sử dụng; nhân thân của người xâm hại; cường độ của sự tấn công và của sự phòng vệ; hoàn cảnh và nơi xảy ra sự việc, v.v.. Đồng thời cũng phải chú ý yếu tố tâm lý của người phải phòng vệ có khi không thể có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn được chính xác phương pháp, phương tiện chống trả thích hợp, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ.
 
Sau khi xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên và nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và đã gây thiệt hại rõ ràng quá mức đối với hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không cần thiết và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là cần thiết thì đó là phòng vệ chính đáng.
 
Tinh thần của Chỉ thị số 07 và Nghị quyết số 02 của Tòa án nhân dân tối cao tuy chỉ là văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, nhưng qua thực tiễn xét xử, các văn bản trên được sử dụng như là một văn bản giải thích chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chế định phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, do còn hạn chế về nhiều mặt nên cả về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, các văn bản trên chưa quy định một cách đầy đủ những dấu hiệu của chế định phòng vệ chính đáng, nên thực tiễn xét xử có không ít trường hợp còn có nhận thức rất khác nhau về phòng vệ chính đáng.
 
Căn cứ vào quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và đặc biệt qua thực tiễn xét xử, chúng ta có thể nêu những điều kiện cần và đủ, một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải hội tụ đủ các yếu tố sau:
 
a) Về phía nạn nhân ( người bị chết hoặc bị thương tích ) phải là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác.
 
Đang có hành vi xâm phạm là hành vi đã bắt đầu và chưa kết thúc
 
Tuy nhiên, trong trường hợp hành vi xâm phạm này đã kết thúc, nhưng lại có tiếp hành vi khác của chính người đó xâm phạm đến lợi ích chính đáng cần bảo vệ thì cũng không coi là hành vi xâm phạm đã kết thúc và người đó có hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ
 
Trường hợp phòng vệ này thường bị nhầm với trường hợp phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân quy định tại Điều 95 Bộ luật hình sự, vì người bị tấn công không phải là người chống trả (người có hành vi phòng vệ ) mà là người khác (người thứ ba ). Tuy nhiên người thứ ba trong trường hợp phòng vệ có thể là người thân của mình, nhưng cũng có thể chỉ là một người không quen biết, còn trường hợp phạm tội do bị kích động mạnh về tinh thần, người bị xâm phạm chỉ có thể là người thân của người phạm tội.
 
Trường hợp phòng vệ này càng dễ nhầm với trường hợp phạm tội trong trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, vì người thứ ba trong trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 có thể là người thân, nhưng cũng có thể là người không quen biết. Hành vi phòng vệ và hành vi được coi là bị kích động về tinh thần chỉ khác nhau ở tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm phạm. Vì vậy, về phía nạn nhân trong trường hợp phòng vệ phải là người có hành vi xâm phạm có tính chất nguy hiểm đáng kể.
 
Mức độ đáng kể ở đây là tùy thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm ( quan hệ xã hội cần bảo vệ). Nếu quan hệ xã hội cần bảo vệ càng quan trọng bao nhiêu thì tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm càng nghiêm trọng bấy nhiêu.
 
Mức độ đáng kể của hành vi xâm phạm còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm ) Nếu tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm không đáng kể thì hành vi chống trả không được coi là phòng vệ.
 
Hành vi xâm phạm phải là hành vi trái pháp luật, nếu hành vi xâm phạm lại là hành vi mà pháp luật cho phép, thì người bị xâm phạm không có quyền chống trả để phòng vệ.
 
Hành vi trái pháp luật trước hết là hành vi phạm tội và những hành vi khác trái với quy định của pháp luật thuộc các ngành khác như: luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự, luật hành chính, luật kinh tế và các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, khi xét hành vi xâm phạm trong trường hợp phòng vệ chính đáng phải xét trong mối tương quan vói hành vi chống trả, không phải bất cứ hành vi tội phạm nào xảy ra, người có hành vi chống trả gây chết người hoặc gây thương tích cho người có hành vi xâm phạm đều là phòng vệ chính đáng.
 
Ngược lại, có những hành vi xâm phạm chưa phải là hành vi phạm tội, nhưng vì nó xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân nên hành vi chống trả vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.
 
Pháp luật các nước nói chung và nước ta nói riêng không coi hành vi tấn công của người mắc bệnh tâm thần là hành vi trái pháp luật, bởi vì người mắc bệnh tâm thần không nhận thức được hành vi của họ là nguy hiểm cho xã hội nên họ không có lỗi. Tuy nhiên, nếu một người bị người mắc bệnh tâm thần tấn công, họ vẫn có quyền chống trả để bảo vệ mình, nhưng nếu còn có thể bỏ chạy mà không chạy, lại chông trả gây thiệt hại cho người bị tâm thần thì không được coi là phòng vệ. Nhưng nếu bị người say rượu tấn công mình hoặc tấn công người khác thì hành vi gây thiệt hại cho người say rượu lại được coi là hành vi phòng vệ, vì người say rượu nếu xâm phạm đến các lợi ích cần bảo vệ, theo pháp luật nước ta vẫn bị coi là hành vi trái pháp luật.
 
b) Về phía người phòng vệ
 
Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe cho người có hành vi xâm phạm
 
Nếu người phòng vệ không gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm mà gây thiệt hại cho người khác (thường là người thân của người có hành vi xâm phạm ), thì không được coi là hành vi phòng vệ
 
Trường hợp người phòng vệ không gây thiệt hại về tính mạng hoặc sức khỏe cho người có hành vi xâm phạm mà lại gây hậu quả khác, thì cũng không được coi là hành vi phòng vệ Cũng không coi là phòng vệ chính đáng trong trường hợp người có hành vi xâm phạm gây thiệt hại đến tài sản của người khác, rồi người khác cũng gây thiệt hại lại cũng về tài sản cho người có hành vi xâm phạm
 
c) Hành vi chống trả phải là cần thiết
 
Cần thiết không có nghĩa là ngang bằng theo cách xác định của toán học như: bên xâm phạm gây thiệt hại như thế nào thì bên phòng vệ cũng chỉ được gây thiệt hại như thế
 
Sự chống trả cần thiết trong phòng vệ chính đáng, trước hết phải căn cứ vào tính chất của các lợi ích bị xâm phạm, tính chất của hành vi xâm phạm và các mối tương quan khác giữa hành vi xâm phạm vơi hành vi phòng vệ.
 
Lợi ích bị xâm phạm càng quan trọng bao nhiêu, thì hành vi chống trả càng phai mạnh mẽ bấy nhiêu. Khi xem xét hành vi chống trả có cần thiết hay không cần phải đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể, trong mối quan hệ giữa lợi ích được bảo vệ và hành vi chống trả.
 
Tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm càng nguy hiểm và nghiêm trọng bao nhiêu thì hành vi chống trả càng phải quyết liệt bấy nhiêu.
 
Khi đánh giá một hành vi chống trả có cần thiết hay không còn phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác như: mối tương quan lực lượng giữa bên xâm phạm và bên phòng vệ, thời gian, không gian xảy ra sự việc.
 
Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe dọa, đẩy lùi sự tấn công trái pháp luật mà nó còn thể hiện thái độ tích cực chống trả sự xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, cả tổ chức, của mình hoặc của người khác. Phòng vệ chính đáng còn là quyền của con người chứ không chỉ là nghĩa vụ, nên không yêu cầu phương pháp, phương tiện của người phòng vệ phải như phương pháp, phương tiện mà kẻ tấn công sử dụng.
 
Tóm lại khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết hay không phải xem xét một cách đầy đủ các tình tiết của vụ án, trong đó đặc biệt là tâm lý, thái độ của người phòng vệ khi xảy ra sự việc, hộ không có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn chính xác phương pháp, phương tiện thích hợp để chống trả, nhất là trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ, chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi sự chống tả rõ ràng là quá đáng.
 
Cũng coi là phòng vệ chính đáng nếu trong một hoàn cảnh cụ thể, một người tưởng lầm rằng người khác có hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của mình hay của người khác mà họ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người đó. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp phòng vệ này là phòng vệ tưởng tượng.
 
Phòng vệ tưởng tượng là gây thiệt hại cho người khác do tưởng lầm rằng người này đang có hành vi xâm phạm nguy hiểm cho xã hội
 
Người có hành vi phòng vệ tưởng tượng chỉ được coi là không có lỗi khi hoàn cảnh cụ thể cho phép người đó tin một cách hợp lý là có sự xâm phạm thực sự và họ tin rằng là mình không nhầm, nếu đặt vào hoàn cảnh cảu người khác thì ai cũng sẽ bị nhầm như vậy
 
Nếu sự lầm tưởng này lại không có căn cứ và trong hoàn cảnh cụ thể đó mọi người đều không thể lầm tưởng thì người có hành vi xâm hại đến tính mạng, sức khỏe cua người khác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hành vi của họ là hành vi phạm tội do cố ý.
 
Hiện nay, trong một số sách báo pháp lý, vấn đề phòng vệ tưởng tượng cũng còn có những quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng phòng vệ tưởng tượng không phải là phòng vệ chính đáng, vì không có cơ sở của quyền phòng vệ, vấn đề trách nhiệm hình sự vẫn được đặt ra và giải quyết như mọi trường hợp sai lầm khác.
 
Pháp luật Việt Nam không thừa nhận hành vi phòng vệ trước (phòng vệ từ xa), tức là chưa có sự tấn công mà đã có hành vi nhằm ngăn chặn sự tấn công, như: đấu dòng điện vào cánh cửa để phòng trộm, dùng bẫy để đề phòng kẻ gian … Nếu việc phòng vệ trước này gây ra hậu quả làm chết người hoặc gây thương tích cho người khác thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự như các trường hợp phạm tội thông thường ( giết người hoặc cố ý gây thương tích ). Tuy nhiên, thực tiễn xét xử, nếu hành vi phòng vệ trước lại gây thiệt hại cho đúng kẻ phạm pháp thì người phạm tội cũng được chiếu cố giảm nhẹ đáng kể.
 
Tuy vậy cần thấy rằng, các nhà làm luật cũng nên tính cả đến yếu tố truyền thống, phong tục, tâm lý của người Việt Nam trong trường hợp “ phòng vệ trước ”. Pháp luật của một số nước kể cả các nước phát triển vẫn quy định trong một số trường hợp phòng vệ trước thì cũng nên quy định trong một số trường hợp phạm tội do phòng vệ trước được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nếu ở nước ta không thừa nhận hành vi phòng vệ trước thì cũng nên quy định trong một số trường hợp phạm tội do phòng vệ trước được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự một cách đáng kể. Phòng vệ trước cũng là trường hợp phòng vệ quá sớm, tức là chưa có hành vi tấn công đã có hành vi phòng vệ
 
Phòng vệ chính đáng không phải là hành vi phạm tội, nhưng nếu chống trả rõ ràng là quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì đó là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì trách nhiệm hình sự đối với họ sẽ được giảm nhẹ rất nhiều so với trường hợp phạm tội không thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Bộ luật hình sự quy định hai trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, đó là giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ( Điều 96 ) và cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ( Điều 106 ) được coi là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt.
 
Tuy nhiên, hành vi phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng cũng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, nên thực tiễn xét xử ngoài hai trường hợp đã được quy định tại Điều 96 và Điều 106, thì không có trường hợp phạm tội nào thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nữa.
 
Cho nên có ý kiến cho rằng việc quy định tình tiết phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là tình tiết giảm nhẹ là không cần thiết, nhất là Bộ luật hình sự đã quy định “ các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”, thì việc quy định tội phạm trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một tình tiết giảm nhẹ lại càng không cần thiết nữa.
 
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, việc quy định phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một tình tiết giảm nhẹ vẫn rất cần thiết, vì thực tiễn xét xử có một số trường hợp giết người hoặc cố ý gây thương tích thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng nhưng căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi chống trả với hành vi phòng vẹ chưa thuộc trường hợp quy định tại Điều 96 hoặc 106 mà thuộc trường hợp giết người quy định tại khoản 2 Điều 93 hoặc cố ý gây thương tích quy định tại Điều 104, thì người phạm tội vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ là phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Phòng vệ chính đáng

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào