Quy định tăng nặng trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của người tham gia, trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
Phạm tội có tổ chức khác với tổ chức phạm tội. Hình luật xã hội chủ nghĩa không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tổ chức ( pháp nhân ), vì vậy không có khái niệm tổ chức phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử vẫn có thể có một tập thẻ của một tổ chức phạm tội, tức là có sự thống nhất từ người đứng đầu đến các nhân viên thực hiện một tội phạm, nhưng khi truy cứu trách nhiệm hình sự thì chỉ truy cứu từng cá nhân trong tổ chức đó.
Phạm tội có tổ chức khác với người tổ chức trong đồng phạm, vì người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu chỉ huy việc thực hiện tội phạm, nói lên vai trò nhiệm vụ của một người trong một vụ án có đồng phạm; còn phạm tội có tổ chức lại nói lên quy mô của tính chất, mức độ nguy hiểm mà tội phạm đó đã xảy ra. Tất nhiên trong phạm tội có tổ chức có người tổ chức ( người cầm đầu ), nhưng không phải chỉ có người tổ chức mới bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà tất cả những người tham gia đều bị coi là phạm tội có tổ chức.
Phạm tội có tổ chức cũng khác với hành vi tổ chức trong một số tội phạm như tổ chức tảo hôn ( Điều 148 ), tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197), tổ chức đánh bạc (Điều 249), tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275). Phạm tội có tổ chức là nói đến quy mô, tổ chức của tội phạm, còn khái niệm “ tổ chức” trong các tội phạm cụ thể nêu ở trên là hành vi phạm tội. Phạm tội có tổ chức nhất thiết phải có từ hai người trở lên, là một hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ, có sự phân công trách nhiệm …;có tổ chức đán bạc, tổ chức tảo hôn, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy … có khi chỉ có một người cũng có thể thực hiện được hành vi phạm tội tổ chức.
Tình tiết tăng nặng này thường là yếu tố định khung hình phạt, nhất là đối với các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ: điểm a khoản 2 Điều 153 (tội buôn lậu); điểm a khoản 2 Điều 156 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); điểm a khoản 2 Điều 160 (tội đầu cơ), v.v.. Một số trường hợp phạm tội có tổ chức còn là yếu tố định tội. Ví dụ tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79)
Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vai trò của từng người tham gia vào tội phạm và quy mô của vụ án. Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm (người tổ chức) có mức độ tăng nặng nhiều hơn người giúp sức trong vụ án phạm tội có tổ chức. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, khi đã xác định có người tổ chức thì mức hình phạt người tổ chức nhất thiết không thể thấp hơn người thực hành, người xúi giục hoặc người giúp sức nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau. Hiện nay có quan niệm cho rằng, áp dụng hình phạt đối với kẻ thực hành cao hơn người tổ chức vì cho rằng người tổ chức không trực tiếp thực hiện tội phạm, là chưa thấy hết tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi do người tổ chức thực hiện.
Cần chú ý rằng, khi đã xác định vụ án được thực hiện có tổ chức thì tất cả những người trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “ phạm tội có tổ chức ”, tuy nhiên mức độ tăng nặng nhiều hay ít đối với từng người còn tùy thuộc vào vai trò của họ trong vụ án như đã phân tích ở trên.
Thư Viện Pháp Luật