Khi nào không phải bồi thường tai nạn giao thông?
Theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 về trách nhiệm bồi thường:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác….”.
Như vậy, theo Bộ luật dân sự 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:
- Phải có thiệt hại xảy ra.
- Phải có hành vi trái pháp luật.
- Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
- Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
Nếu trường hợp bạn nêu được cơ quan có thẩm quyền xác định nguyên nhân gây ra tai nạn là do lỗi của người thanh niên đi xe máy (người bị thiệt hại) thì về nguyên tắc, bạn không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, nếu do bạn chở hàng cồng kềnh vượt quá kích thước cho phép, là nguyên nhân gây ra tai nạn, bạn có thể phải bồi thường thiệt hại cho người bị hại và có thể sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm k khoản 4 Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt với mức phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng.
Thư Viện Pháp Luật