Bà Mai Thị Phương Thúy (TP. Hà Nội) hỏi: Theo quy định về đấu thầu thì giá làm căn cứ cấp cam kết tín dụng là giá thực tế nhà thầu tham dự thầu hay giá kế hoạch có sẵn trong hồ sơ mời thầu chủ đầu tư đưa ra? Vừa qua, Công ty của bà Thúy dự thầu gói thầu mua thuốc của một bệnh viện. Trong quy định về năng lực tài chính có yêu cầu đơn vị cung cấp cam kết cấp tín dụng “với giá trị là 0,3 lần giá dự thầu phần công việc nhà thầu tham dự”. Tuy nhiên, trong nội dung về bảo đảm dự thầu lại nêu "2% giá trị kế hoạch phần nhà thầu tham dự được ghi rõ cho từng phần gói thầu tại bảng phạm vi cung cấp danh mục thuốc mời thầu". Tại bảng danh mục thuốc mời thầu có cột "đơn giá". Giá tham dự thầu của Công ty bà Thúy thấp hơn giá kế hoạch chủ đầu tư đưa ra nên số tiền trong cam kết tín dụng bị bên chấm thầu đánh giá là thiếu và hồ sơ không đạt. Bà Thúy đề nghị được hướng dẫn về việc xác định giá làm căn cứ cấp cam kết tín dụng.
Khoản 1, Điều 15 Nghị định 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu.
Ghi chú số 10 Chương III Mẫu hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa ban hành kèm theo Thông tư 05/2015/TT-BKHĐT hướng dẫn yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu được xác định theo công thức sau:
Yêu cầu về nguồn lực tài chính cho gói thầu = t x (Giá gói thầu). Thông thường yêu cầu hệ số “t” trong công thức này là từ 0,2 đến 0,3.
Theo đó, việc thực hiện cam kết tín dụng gói thầu và việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải tuân thủ theo quy định nêu trên.