Nhà đất được thừa kế chung, phân chia thế nào?
Theo ông Nguyễn Gia Đức phản ánh, 7 người gồm 6 anh chị em và 1 người cháu gái của ông, đều sinh sống ở trong nước, đã xác lập quyền sở hữu chung do nhận thừa kế theo di chúc đối với tài sản là 930m2đất và nhà ở trên đất đó; đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất đứng tên đồng sở hữu 7 người do người cháu gái làm đại diện.
Điều 216 và Khoản 1, Điều 217 Bộ Luật Dân sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2017) quy định, các chủ sở hữu chung cùng quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí; mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình.
Việc người cháu gái của ông Đức không bàn bạc, không được các chủ sở hữu chung khác nhất trí mà đã tự ý xây dựng ki ốt cho thuê, một mình hưởng lợi tức của tất cả khối tài sản chung là trái pháp luật. Các chủ sở hữu chung khác có quyền yêu cầu người cháu gái chia lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình.
Chia tài sản thuộc sở hữu chung
Theo Khoản 1, Điều 219 Bộ Luật Dân sự, trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung.
Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
Theo đó, khi cần chia tài sản chung thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung. Nếu các chủ sở hữu chung nhất trí, thỏa thuận việc chia tài sản chung, thì có thể lập Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung tại Tổ chức công chứng nơi có đất.
Nếu người cháu gái của ông Đức cố tình chiếm giữ tài sản chung, không chia cho các chủ sở hữu chung khác, thì các chủ sở hữu chung khác có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân nơi có đất chia tài sản chung và chia lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình.
Việc chia quyền sử dụng đất liên quan đến việc chia tách thửa đất, phải phù hợp với quy định của pháp luật đất đai về kích thước, diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi có đất.
Trường hợp không thể chia được bằng hiện vật do khi chia các phần không đủ kích thước, diện tích đất ở tối thiểu được phép tách thửa, thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình cho chủ sở hữu chung khác để nhận phần bằng tiền.
Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung tại Tổ chức công chứng, hoặc Bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở đăng ký biến động quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền đất cho mỗi cá nhân sau khi chia tài sản chung.
Thư Viện Pháp Luật