Tội đe dọa giết người và dấu hiệu cơ bản của người phạm tội

Dấu hiệu cơ bản của người phạm tội đe dọa giết người?

 Người phạm tội đe dọa giết người phải có hành vi làm cho người bị đe dọa lo sợ bị giết. Hành vi này chỉ có thể là hành động như bằng lời nói, cử chỉ, cách nhìn, nhưng không phải để thực hiện việc giết người mà chỉ nhằm làm cho người bị đe dọa tưởng thật là mình bị giết như: mài dao, lấy súng lên đạn, viết thư, nhắn tin, v.v..
 
Hành vi của người phạm tội phải làm cho người bị đe dọa thực sự tin rằng mình sẽ bị giết, tức là có căn cứ để xác định hành vi đe dọa đó sẽ được thực hiện; căn cứ này phát sinh từ phía người bị đe dọa không phải là căn cứ khách quan, đây là dấu hiệu đặc trưng của tội này, song lại là dấu hiệu khó xác định.
 
Nếu người phạm tội sau lời đe dọa lại thực hiện một số hành vi như tìm kiếm phương tiện giết người hoặc chuẩn bị phương tiện giết người thì phải xác định những hành động đó chỉ nhằm làm cho người bị đe dọa tưởng bị giết thật chứ không nhằm tước đoạt tính mạng người bị đe dọa. Chính vì mục đích đó, nên hành vi có vẻ chuẩn bị này, người phạm tội cố ý để cho người đe dọa biết; còn hành vi chuẩn bị nhằm tước đoạt tính mạng của người khác, người phạm tội phải thực hiện một cách lén lút không ai biết, vì nếu để lộ sẽ không thực hiện được ý định giết người. Đây cũng là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa tội đe dọa giết người với tội giêt người ở giai đoạn chuẩn bị.
 
Nếu người phạm tội có hành vi đe dọa, nhưng hành vi đó chỉ là phương pháp để thực hiện một tội phạm khác, nhằm mục đích khác thì không phải là phạm tội đe dọa giết người, như: hành vi đe dọa dùng bạo lực trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm nhân phẩm của con người, v.v..
 
Chủ thể của tội đe dọa giết người nhất thiết phải đủ 16 tuổi trở lên, nếu dưới 16 tuổi thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này, vì khoản 1 Điều 103 là tội ít nghiêm trọng và khoản 2 Điều 103 là tội nghiêm trọng mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự) 
 

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Người phạm tội

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào