Không còn khả năng thang toán trả góp xử lý thế nào?

Tôi có một người bạn mua trả góp tủ lạnh nhưng còn lại 3 tháng nữa là hết hợp đồng trả góp, mỗi tháng trả là 661.000 đồng. Nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên đã không trả tiếp 3 kỳ cuối, giờ cho tôi hỏi nếu công ty đó kiện thì bạn tôi sẽ bị xử lý như thế nào? Mong nhận được tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật. Chân thành cảm ơn!

Có thể thấy bạn của bạn mua trả góp tủ lạnh nên chắc chắn giữa bạn của bạn và bên bán có sự thỏa thuận về việc mua bán tủ lạnh và có hợp đồng mua bán tài sản.

Thứ nhất, trách nhiệm dân sự.

Theo Điều 438 Bộ luật dân sự 2005 quy định:

“1. Bên mua phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm đã thoả thuận; nếu không có thoả thuận thì phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm giao tài sản.

2. Bên mua phải trả lãi, kể từ ngày chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 305 của Bộ luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

Như vậy, bạn của bạn có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán mà bạn của bạn đã mua tủ lạnh đã trả góp theo sự thỏa thuận giữa bạn của bạn và bên bán về thời điểm trả tiền cũng như số tiền phải trả.

Theo thông tin bạn cung cấp, mỗi tháng bạn của bạn phải trả mức tiền là 661.000 đồng và còn phải trả 3 tháng nữa là hết thời hạn theo hợp đồng. Tuy nhiên, bạn của bạn không có khả năng trả số tiền còn lại do vậy bên bán sẽ có quyền khởi kiện bạn của bạn ra cơ quan Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, buộc bạn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo Bộ luật dân sự 2005 như sau:

“Điều 305. Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự

1. Khi nghĩa vụ dân sự chậm được thực hiện thì bên có quyền có thể gia hạn để bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ; nếu quá thời hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa được hoàn thành thì theo yêu cầu của bên có quyền, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại; nếu việc thực hiện nghĩa vụ không còn cần thiết đối với bên có quyền thì bên này có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

Thứ hai, trách nhiệm hình sự.

Căn cứ Điều 139 Bộ luật hình sự sửa đổi 2009 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đếnhai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “chiếm đoạt”, nhưng chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Cần phải xem xét các thông tin bạn của bạn cung cấp cho phía bên bán hàng thời điểm giao kết hợp đồng, các thông tin, giấy tờ của bạn của bạn, số chứng minh nhân dân, địa chỉ…là các thông tin chính xác thì trường hợp bạn của bạn không phải là hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản mà chỉ có hành vi không trả tiền cho bên bán vì điều kiện khó khăn và mất khả năng thanh toán. Như vậy, ngay từ đầu bạn của bạn không có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do đó bạn của bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm

Căn cứ Điều 140 Bộ luật hình sự sửa đổi 2009 quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây  chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưnggây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

  a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

  b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cần làm rõ tình tiết việc bạn của bạn không có khả năng trả tiền xuất phát từ lý do chính đáng hay không? Thời hạn thanh toán hay thời hạn chậm trả là bao lâu theo thỏa thuận trong hợp đồng, bạn của bạn có thay đổi địa chỉ hay bỏ trốn, hay sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản hay không?

Nếu những tình tiết trên là chính đáng và thông tin xác thực, bạn không bỏ trốn thì sẽ không đủ dấu hiệu cấu thành Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạtài sản.

Do vậy, từ các phân tích trên, trường hợp này, bên bán chỉ có thể khởi kiện dân sự yêu cầu bạn của bạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Bạn của bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chung tôi thấy rằng, số tiền không quá lớn nên bạn của bạn nên hoàn trả lại số tiền này cho bên bán để tránh gặp những rắc rối.

Trên đây là tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về việc không còn khả năng thang toán trả góp. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật dân sự 2005 để nắm rõ quy định này.

Trân trọng!

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào