Quy định về tội cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát

Quy định về tội cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát?

Cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát (điểm c khoản 3 Điều 113)
 
Người bị cưỡng dâm cũng có trường hợp vì nhiều lý do khác nhau nên đã tự sát. Tuy nhiên khi xác định do bị cưỡng dâm mà nạn nhân tự sát thì người phạm tội mới bị coi là làm nạn nhân tự sát. Thực tiễn xét xử, có những trường hợp nạn nhân tự sát là do những lý do trực tiếp khác chứ không phải do bị cưỡng dâm, bị chồng con, gia đình ruồng bỏ, khinh bỉ, ngược đãi, thậm chí có những hành vi xúc phạm đến nhân phẩm của nạn nhân, làm cho nạn nhân chán đời tự sát, nhưng nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc gia đình nạn nhân ruồng bỏ là do bị cưỡng dâm thì người phạm tội cưỡng dâm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp làm nạn nhân tự sát.
 
Nếu nguyên nhân dẫn đến việc nạn nhân tự sát không liên quan gì đến hành vi cưỡng dâm của người phạm tội thì không thuộc trường hợp cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát. Ví dụ: chị H là sinh viên trường đại học, bị Đoàn Văn Phương cưỡng dâm trong lúc chị H đang yêu anh Đinh Thế A. Biết chị H bị cưỡng dâm nhưng anh A vẫn yêu chị H và quyết tâm lấy chị H làm vợ. Ngay từ khi chị H và anh A yêu nhau, gia đình chị H đã phản đối, muốn gả H cho người giàu có. Sau khi tốt nghiệp, bố mẹ chị H bắt chị H về để gả cho người mà gia đình đã hứa, chị H đã viết một lá thư tuyệt mệnh và uống thuốc tự tử.
 
Người phạm tội cưỡng dâm làm nạn nhân tự sát, không nhất thiết nạn nhân phải chết mà chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát là người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 3 Điều 113.
 
Cưỡng dâm thuộc các trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; làm nạn nhân chết hoặc tự sát, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 113 có khung hình phạt từ bảy năm đến mười tám năm tù.
 

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Tội xâm phạm tính mạng sức khỏe

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào