Đối tượng rừng khai thác chính gỗ rừng tự nhiên
Đối tượng rừng khai thác chính gỗ rừng tự nhiên được quy định tại Khoản 2 Điều 4 Thông tư 21/2016/TT-BNNPTNT quy định về khai thác chính và tận dụng, tận thu lâm sản do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành.
Theo đó, rừng sản xuất là rừng tự nhiên chưa qua khai thác hoặc đã qua khai thác đã phục hồi tối thiểu một luân kỳ khai thác đáp ứng các tiêu chí sau:
a) Trữ lượng gỗ phải đạt:
Rừng lá rộng thường xanh từ 150 m3/ha trở lên.
Rừng gỗ lá rộng nửa rụng lá từ 130 m3/ha trở lên.
Rừng khộp từ 110 m3/ha trở lên.
Rừng lá kim từ 130m3/ha trở lên.
Rừng hỗn giao gỗ với tre nứa từ 80 m3/ha trở lên.
b) Trữ lượng của các cây đạt cấp kính khai thác trong lô phải lớn hơn 30% tổng trữ lượng rừng của lô đó.
c) Cây gỗ được khai thác chính (trừ trường hợp cây phải chặt hạ khi làm đường vận xuất, vận chuyển, bãi gỗ) là những cây đã thành thục công nghệ và tùy theo từng loại cây, phải đạt đường kính tối thiểu đo tại vị trí thân cây cách mặt đất 1,3 mét (viết tắt là D1,3m) như sau:
- Nhóm I và II: 45 cm;
- Nhóm III đến nhóm VI: 40 cm;
- Nhóm VII và VIII: 35 cm.
- Cây gỗ họ dầu trong rừng rụng lá (rừng khộp) và cây gỗ căm xe, táu, sến: có đường kính tối thiểu là 35 cm.
Trên đây là trả lời của Ban biên tập Thư Ký Luật về đối tượng rừng khai thác chính gỗ rừng tự nhiên, được quy định tại Thông tư 21/2016/TT-BNNPTNT. Bạn vui lòng tham khảo văn bản này để có thể hiểu rõ hơn.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật