Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản?
Cũng như đối với tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được thực hiện do cố ý. Mục đích của người phạm tội là chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi bắt cóc người làm con tin lại nhằm một mục đích khác mà không nhằm chiếm đoạt tài sản, thì không phải là tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, mà tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác. Ví dụ: để trả thù anh Đinh Văn Th, Vũ Xuân H bắt cóc con trai anh Th mới 3 tuổi để anh Th phải từ bỏ chuyến đi công tác nước ngoài. Hành vi của Vũ Xuân H chỉ phạm tội bắt người trái pháp luật quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi bắt cóc, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin. Ví dụ: trong trường hợp với Vũ Xuân H vừa nêu trên, sau khi đã bắt được con anh Th và có những hành vi buộc anh Th phải giao cho mình một khoản tiền thì mới trả con anh Th, hành vi của H đã chuyển hóa từ tội bắt người trái pháp luật sang tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để xác định tội danh. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của đồng phạm khác thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
Thư Viện Pháp Luật