Tặng, cho đất trong thời kỳ hôn nhân
Trường hợp thứ nhất, nếu mảnh đất đó là tài sản chung của vợ, chồng người anh của bạn thì căn cứ Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:
a) Bất động sản;
b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;
c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.
Mặc dù bạn trình bày là mảnh đất đó có giá trị không lớn nhưng nếu anh bạn giấu vợ để cho bạn mảnh đất này thì khi ra tòa, rất nhiều khả năng bạn sẽ phải trả lại mảnh đất này. Mặt khác, theo quy định tại Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu. Tuy nhiên, người vợ không thể căn cứ vào lý do quan hệ bất chính để yêu cầu tòa án chấp nhận yêu cầu buộc bạn phải trả lại mảnh đất và bạn cũng không phải mang tội danh bất chính trong trường hợp này.
Trường hợp thứ hai, nếu mảnh đất đó là tài sản riêng của anh bạn: căn cứ Khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 “Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này”. Nghĩa là anh bạn có quyền định đoạt mảnh đất đó, bao gồm cả việc anh bạn có quyền tặng cho mảnh đất thuộc khối tài sản riêng của anh bạn mà không cần sự đồng ý của người vợ. Trường hợp này, người vợ sẽ không thể yêu cầu tòa buộc bạn phải trả lại mảnh đất mà anh bạn đã tặng cho bạn.
Trên đây là tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về việc tặng cho đất trong thời kỳ hôn nhân. Bạn nên tham khảo chi tiết Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để nắm rõ quy định này.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật