Tranh chấp quyền nuôi con với vợ cũ
Thứ nhất, về trách nhiệm hình sự của người vợ cũ khi trộm cắp tài sản
Đối với hành vi trộm cắp tài sản, nếu hành vi này chưa bị xét xử tại nước ngoài thì bạn hoàn toàn có thể tố giác tội phạm tại Cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án… Sau khi xác định được là có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan điều tra sẽ khởi tố và truy cứu theo quy định của pháp luật.
Đối với mang con về Việt Nam và không cho bạn gặp con có ấy có thể thấy hành vi này có mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, hơn nữa pháp luật Việt Nam chưa có quy định về trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội trên.
Thứ hai, về việc tranh chấp quyền nuôi con với vợ cũ:
Bạn có thể yêu cầu Toà án Việt Nam công nhận va cho thi hành bản án của Mỹ tại Việt Nam vì đây là một trong những thẩm quyền của Tòa án Việt Nam quy đinh tại Khoản 5 Điều 27 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015
Điều 27. Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
5. Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
Thứ ba, nếu bạn không yêu cầu cho công nhận và cho thi hành bản án của Tòa án Mỹ, bạn hoàn toàn có thể khởi kiện về tranh chấp về quyền nuôi con theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc giải quyết được tranh chấp được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 như sau:
Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy, trường hợp này con đã 3 tuổi nên việc Tòa giao con cho ai nuôi căn cứ vào từng trường hợp cụ thể và căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
Lưu ý rằng:
- Nếu trường hợp người vợ bị xử lý về hành vi trộm cắp bằng hình thức xử phạt hành chính hoặc bị kết án về tội trộm cắp nhưng không bị phạt tù mà là hình phạt khác, thì bạn có thể nếu lên tình tiết này để Tòa xem xét rằng khi để người vợ nuôi con có ảnh hưởng được sự phát triển về mọi mặt, ảnh hưởng đến tính cách của con hay không, từ đó có nên giao con cho người vợ hay không.
- Nếu trường hợp vợ bạn bị kết án phạt tù về hành vi trộm cắp thì bạn có thể yêu cầu Tòa án giao con cho mình nuôi vì người vợ không có điều kiện nuôi dưỡng con.
Trên đây là tư vấn về giải quyết tranh chấp quyền nuôi con với vợ cũ. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để nắm rõ quy định này.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật