Chữ ký giáp lai trên các trang của hợp đồng chuyển nhượng do văn phòng công chứng thực
Điều 48 Luật Công chứng 2014 quy định về việc ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng như sau:
“1. Người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên.
Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
2. Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.
3. Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp sau đây:
a) Công chứng di chúc;
b) Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng;
c) Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng.”
Căn cứ theo quy định trên, việc điểm chỉ được thay thế cho việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng không ký được hoặc không biết ký. Trong trường hợp của bạn, người yêu cầu công chứng vẫn biết ký nên không nhất thiết phải điểm chỉ. Tuy nhiên, việc điểm chỉ vẫn được thực hiện đồng thời với việc ký nếu người yêu cầu công chứng có yêu cầu hoặc công chứng viên thấy cần thiết. Pháp luật không quy định khi điểm chỉ thì phải điểm chỉ từng trang. Do đó, việc công chứng đề nghị người yêu cầu công chứng điểm chỉ vào trang cuối như vậy là không trái quy định của pháp luật.
Trong trường hợp người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề công chứng thì người đó có thể ký trước vào hợp đồng; công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của họ trong hợp đồng với chữ ký mẫu trước khi thực hiện việc công chứng.
2. Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.
3. Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp sau đây:
a) Công chứng di chúc;
b) Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng;
c) Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng.”
Căn cứ theo quy định trên, việc điểm chỉ được thay thế cho việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng không ký được hoặc không biết ký. Trong trường hợp của bạn, người yêu cầu công chứng vẫn biết ký nên không nhất thiết phải điểm chỉ. Tuy nhiên, việc điểm chỉ vẫn được thực hiện đồng thời với việc ký nếu người yêu cầu công chứng có yêu cầu hoặc công chứng viên thấy cần thiết. Pháp luật không quy định khi điểm chỉ thì phải điểm chỉ từng trang. Do đó, việc công chứng đề nghị người yêu cầu công chứng điểm chỉ vào trang cuối như vậy là không trái quy định của pháp luật.
Thư Viện Pháp Luật