Quy định của pháp luật về trường hợp phạm tội cướp giật tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng?

Quy định của pháp luật về trường hợp phạm tội cướp giật tài sản gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng?

Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại vể thể chất, về tài sản; thiệt hại phi vật chất do hành vi cướp giật tài sản gây ra phải tương đương với các tình tiết quy định tại khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự vì nó được quy định trong một khung hình phạt với các tình tiết này. Căn cứ vào các quy định tại Điều 136, qua thực tiễn xét xử có thể coi những thiệt hại sau đây là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi cướp giật tài sản gây ra:
 
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 61% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% trở lên (bao gồm cả tỷ lệ thương tật do hành vi cướp giật trực tiếp gây ra và cả tỷ lệ thương tật do hành vi cướp giật gián tiếp gây ra).
 
- Gây chết người (ngoài người bị chết do thực hiện hành vi giật tài sản gây ra). Ví dụ: A giật tài sản của B, do bị giật tài sản nên B đã điều khiển xe máy không đúng phần đường, đã gây ra tai nạn làm một người chết.
 
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, nhưng không phải là giá trị tài sản người phạm tội cướp giật.
 
- Ngoài những thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản có thể xác định được như đã nêu trên, còn những thiệt hại phi vật chất cũng cần được xác định để đánh giá hậu quả do hành vi cưỡng đoạt tài sản gây ra, như ảnh hưởng xấu đến an ninh , trật tự, an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên 1 địa bàn nhất định, làm cho nhiều người vì quá sợ hãi nên phải bỏ học, bỏ việc làm, không dám lao động sản xuất, không dám buôn bán.. Những thiệt hại phi vật chất, đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, trong hoàn cảnh cụ thể, xảy ra ở một địa bàn cụ thể, mới có thể xác định dược chính xác.
 
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 136 thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ  mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù trung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khi quyết định khung hình phạt, cần chú ý một số điểm sau.
 
- Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có tình tiết tăng nặng nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Tòa án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất khung hình phạt (dưới mười hai năm tù) nhưng không được dưới bảy năm tù.
 
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thi khi quyết định hình phạt cần lưu ý đến các tình tiết tương tự như đã nêu ở mục 2 phần này.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Tội xâm phạm sở hữu

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào