Đưa tiền xin việc phạm tội gì?
Căn cứ Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Theo quy định trên, thì hành vi khách quan của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ đoạn gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật để lừa dối người khác để chiếm đoạt tiền, tài sản của người khác.
Theo thông tin bạn cung cấp, thì bố bạn có giao 120 triệu cho một người quen để xin việc, nhưng sau một thời gian không thấy họ có ý muốn giúp nên gia đình bạn đề nghị lấy lại tiền, người đó lấy lý do chưa trả; để xác định xem hành vi của người nhận tiền có cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không thì cần phải xem xét xem người đó có hành vi lừa dối gia đình bạn để chiếm đoạt 120 triệu không? Tuy nhiên, bạn không nói rõ cụ thể các thông tin trong tình huống của bạn; nên chưa đủ căn cứ để xác định xem người đó có lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không? Bạn cần xem xét xem người đó có dấu hiệu lừa dối, dung thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền đó hay không? Nếu có thì hành vi này được xác định là hành vi lừa đảo và sẽ bị truy cứu trách nhiệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.
Tuy nhiên, đối với hành vi của bố bạn là đưa tiền nhờ người khác xin việc, hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đưa hối lộ theo Điều 289 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
"1. Người nào đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ hai triệu đồng đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm. [...]"
Đối với hành vi của người nhận tiền của gia đình bạn để xin việc:
+ Nếu người này là người có chức vụ, quyền hạn và việc họ nhận tiền của gia đình bạn để xin việc cho người trong gia đình bạn thì hành vi của người này cấu thành Tội nhận hối hộ, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 279 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.
+ Nếu người này không phải là người có chức vụ, quyền hạn mà chỉ nhận tiền của gia đình bạn để làm các việc như: chuyển yêu cầu về hối lộ của nhận nhận cho người đưa, của người đưa cho người nhận để người nhận người này lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm một việc hoặc không làm một việc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, cụ thể ở đây là xin việc; hoặc có thể tổ chức để người đưa và người nhận hối lộ gặp nhau và đưa ra các yêu sách của mình,...thì trong trường hợp này, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự Tội làm môi giới hối lộ theo Điều 290 Bộ luật Hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009.
Trên đây là tư vấn về việc xử lý hành vi đưa tiền xin việc. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật Hình sự 1999 để nắm rõ quy định này.
Trân trọng!
Thư Viện Pháp Luật