Kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Em muốn hỏi ba em bị người ta xúi dục giả mạo chữ ký vay tiền ngân hàng chợ đen khoảng 100 triệu. Người chủ vay giấu chồng nên nhờ ba em giả chữ ký, tới lúc bị bắt ra tòa lại phạt ba em hai năm tám tháng, với lại ba em cũng có tiền án tiền sự trước rồi nhưng em thấy mức phạt quá cao vì ba em chỉ nhận có 1 triệu nhưng đã nộp lại tòa rồi. Bây giờ em không biết làm sao nữa. Mong nhận được tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật. Chân thành cảm ơn!

- Căn cứ vào Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

"Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

- Trong trường hợp của bố bạn, mức xử phạt về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản phụ thuộc vào giá trị tài sản chiếm đoạt chứ không phụ thuộc vào số tiền 1 triệu đồng thù lao bố bạn nhận được. Cụ thể, mức thấp nhất của khung hình phạt quy định người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Theo thông tin bạn cung cấp, bố bạn đã bị xử phạt hai năm tám tháng tù giam thuộc trường hợp vi phạm tại Khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tuy nhiên, bố bạn từng có tiền án, tiền sự, đây được xem là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do vậy, trong trường hợp bạn không cung cấp cụ thể giá trị tài sản bố bạn tham gia lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì không thể khẳng định mức xử phạt tù của tòa án là nặng hay không. 

- Trong trường hợp bạn muốn làm thủ tục kháng cáo để xét giảm mức án cho bố bạn thì căn cứ Điều 233 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục kháng cáo và kháng nghị như sau:

"Điều 233. Thủ tục kháng cáo và kháng nghị

1. Người kháng cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Ban giám thị trại tạm giam phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo.

Người kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo đó theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.

2. Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị bằng văn bản, có nêu rõ lý do. Kháng nghị được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm."

- Căn cứ  Khoản 3 Mục I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP về việc tiếp nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo của tòa án như sau:

"3. Về Điều 233 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003

3.1. Việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Toà án cấp sơ thẩm 

a) Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm phải vào sổ nhận đơn và kiểm tra người làm đơn kháng cáo có thuộc chủ thể có quyền kháng cáo và nội dung kháng cáo có thuộc giới hạn của việc kháng cáo được quy định tại Điều 231 của BLTTHS và được hướng dẫn tại mục 1 Phần I của Nghị quyết này hay không, đồng thời kiểm tra kháng cáo có được làm trong thời hạn quy định tại Điều 234 của BLTTHS và được hướng dẫn tại mục 4 Phần I của Nghị quyết này hay không để tiến hành tiếp các công việc theo quy định của BLTTHS và hướng dẫn của Nghị quyết này. 

b) Trong trường hợp người kháng cáo đến Toà án cấp sơ thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo, thì Chánh án Toà án cử một Thẩm phán hoặc một cán bộ Toà án tiếp và giải quyết. Nếu người kháng cáo biết chữ và viết được thì hướng dẫn để họ tự viết đơn. Nếu họ muốn trình bày trực tiếp thì lập biên bản về việc kháng cáo đó theo đúng quy định tại Điều 95 của BLTTHS. 

c) Trong trường hợp đơn kháng cáo bảo đảm đầy đủ các điều kiện theo quy định của BLTTHS và hướng dẫn của Nghị quyết này thì tiến hành thông báo về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 236 của BLTTHS và hướng dẫn tại mục 6 Phần I của Nghị quyết này. 

d) Trong trường hợp đơn kháng cáo làm trong thời hạn luật định và là của người có quyền kháng cáo nhưng nội dung kháng cáo chưa cụ thể, chưa rõ ràng, thì Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay cho họ để họ thể hiện nội dung kháng cáo cho cụ thể và rõ ràng theo quy định của pháp luật. 

đ) Trong trường hợp đơn kháng cáo là của người không có quyền kháng cáo hoặc nội dung kháng cáo không thuộc giới hạn của việc kháng cáo thì trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn, Toà án cấp sơ thẩm trả lại đơn cho người làm đơn và ghi chú vào sổ nhận đơn về việc trả lại đơn. Việc trả lại đơn phải được thông báo bằng văn bản trong đó ghi rõ lý do của việc trả lại đơn. Nếu trước đó việc kháng cáo này đã được thông báo theo quy định tại Điều 236 của BLTTHS và hướng dẫn tại mục 6 Phần I của Nghị quyết này thì thông báo trả lại đơn cũng phải được gửi cho những nơi đã có thông báo. 

e) Trong trường hợp đơn kháng cáo là của người có quyền kháng cáo, nội dung kháng cáo thuộc giới hạn kháng cáo, nhưng quá thời hạn thì Toà án cấp sơ thẩm lập hồ sơ kháng cáo quá hạn và gửi đơn kháng cáo cùng các giấy tờ, tài liệu kèm theo chứng minh lý do của việc kháng cáo quá thời hạn (nếu có) cho Toà án cấp phúc thẩm để xét lý do kháng cáo quá hạn. Nếu trong vụ án chỉ có kháng cáo quá hạn, không có kháng cáo khác, không có kháng nghị thì Toà án cấp sơ thẩm chưa phải gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm. 

3.2. Việc nhận kháng cáo và xử lý kháng cáo tại Toà án cấp phúc thẩm 

a) Trong trường hợp Toà án cấp phúc thẩm nhận được đơn kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) thì Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển cho Toà án cấp sơ thẩm để tiến hành các công việc theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 này. 

b) Trong trường hợp người kháng cáo đến Toà án cấp phúc thẩm trình bày trực tiếp về việc kháng cáo, thì Toà án cấp phúc thẩm giải thích cho họ biết là họ chỉ có quyền trình bày trực tiếp về việc kháng cáo với Toà án cấp sơ thẩm."

Trên đây là tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật về kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật hình sự năm 1999 để nắm rõ quy định này.

Trân trọng!

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Tội xâm phạm sở hữu

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào