Quy định về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự

Quy định về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự?

a) Có tổ chức
 
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm quyền trong khi thi hành công vụ có tổ chức là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục, người giúp sức nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.
 
b) Phạm tội nhiều lần
 
Lạm quyền trong khi thi hành công vụ nhiều lần là từ hai lần lạm quyền trong khi thi hành công vụ trở lên và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý (xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội lạm quyền nhiều lần trong khi thi hành công vụ.
 
c) Gây hậu quả nghiêm trọng Lạm quyền trong khi thi hành công vụ gây hậu quả nghiêm trọng là do thực hiện hành vi phạm tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, nên đã gây ra những thiệt hại cho xã hội và con người. Khác với một số tội phạm quy định trong chương các tội phạm về chức vụ, nhà làm luật quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, tội phạm này chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, như đã phân tích về các tội phạm có tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng khác, hậu quả nghiêm trọng và hậu quả nghiêm trọng khác không phải là một. Cũng như đối với các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở các tội phạm khác, có thể coi đây là hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ nếu gây ra các thiệt hại như đã trình bày ở các phần trên.
 
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự thì người phạm tội bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm, là tội phạm rất nghiêm trọng. Cũng như đối với các trường hợp phạm tội khác, khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 282, Tòa án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng thì tòa án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới năm năm tù) nhưng không được dưới một năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật thì có thể bị phạt đến mười hai năm tù.
 
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 282.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Tội phạm về chức vụ

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào