Quy định về thời hạn bán tài sản thuộc sở hữu chung
Không có sự mâu thuẫn về thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án giữa khoản 3 Điều 74 và khoản 2 Điều 101 Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014, cụ thể:
Khoản 3 Điều 74 quy định trách nhiệm của Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn 03 tháng đối với bất động sản là để đảm bảo quyền ưu tiên của chủ sở hữu chung được mua tài sản trước khi bán đấu giá lần đầu. Điều luật quy định thời hạn như trên là phù hợp với khoản 3 Điều 223 Bộ Luật dân sự.
Như vậy, có thể thấy pháp luật quy định riêng đối với trường hợp bán tài sản thuộc sở hữu chung. Đối với các tài sản khác, việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá theo khoản 2 Điều 101 Luật thi hành án dân sự.
Do đó, đối với trường hợp bán tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên cần lưu ý thực hiện ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản bảo đảm khi tài sản được bán đấu giá lần đầu là đủ thời hạn đã thông báo cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo đúng quy định trên.
Như vậy, có thể thấy pháp luật quy định riêng đối với trường hợp bán tài sản thuộc sở hữu chung. Đối với các tài sản khác, việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày định giá theo khoản 2 Điều 101 Luật thi hành án dân sự.
Do đó, đối với trường hợp bán tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên cần lưu ý thực hiện ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản bảo đảm khi tài sản được bán đấu giá lần đầu là đủ thời hạn đã thông báo cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo đúng quy định trên.
Thư Viện Pháp Luật