Không được thử việc quá một lần đối với một công việc
Trường hợp tuyển dụng vào viên chức
Trước ngày 1/6/2012, áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định số 116/2003/NĐ-CP, thời gian thử việc đối với người tuyển dụng vào làm việc trong các đơn vị sự nghiệp khi ký hợp đồng làm việc lần đầu như sau: Viên chức loại A: thời gian thử việc là 12 tháng (riêng bác sĩ là 9 tháng); Viên chức loại B: thời gian thử việc là 6 tháng; Viên chức loại C: thời gian thử việc là 3 tháng.
Hiện nay, theo khoản 2 Điều 27 Luật Viên chức, người trúng tuyển viên chức phải thực hiện chế độ tập sự, trừ trường hợp đã có thời gian từ đủ 12 tháng trở lên thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng. Thời gian tập sự từ 3 tháng đến 12 tháng và phải được quy định trong hợp đồng làm việc.
Trường hợp giao kết hợp đồng lao động
Đối với người giao kết hợp đồng lao động thực hiện một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp theo quy định tại Nghị định 68/2000/NĐ-CP thì thời gian thử việc được áp dụng theo quy định của Bộ Luật Lao động.
Trước ngày 1/5/2013, theo quy định tại Điều 32 Bộ luật lao động năm 1994, thời gian thử việc không được quá 60 ngày đối với lao động chuyên môn kỹ thuật cao và không được quá 30 ngày đối với lao động khác. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải nhận người lao động vào làm việc chính thức như đã thoả thuận.
Hiện nay, theo quy định tại Điều 27, khoản 1 Điều 29 Bộ luật Lao động năm 2012, thời gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc 1 lần đối với một công việc và bảo đảm các điều kiện sau đây:
Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên. Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn kỹ thuật trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ. Không quá 6 ngày làm việc đối với công việc khác.
Khi kết thúc thời gian thử việc, việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.
Căn cứ các quy định nêu trên, nhận thấy đơn vị sự nghiệp công lập nơi ông Trịnh Văn Sung làm việc đã thực hiện không đúng quy định của pháp luật về thời gian thử việc, tập sự. Việc ký hợp đồng thử việc có thời hạn 1 năm nhiều lần đối với một công việc, với mức lương bằng 85% là không đảm bảo quyền lợi của ông Sung.
Do ông Sung không nêu rõ ông vị trí tuyển dụng là viên chức theo hợp đồng làm việc, hay là người lao động theo hợp đồng lao động quy định tại Nghị định 68/2000/NĐ-CP; Chức danh nghề nghiệp, loại viên chức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thế nào? Vì vậy, không thể xác định chính xác thời gian thử việc, tập sự của ông là bao nhiêu. Tuy nhiên căn cứ vào quy định thì thời gian thử việc, tập sự tối đa là 12 tháng. Kết thúc thời gian thử việc, tập sự mà người thử việc, tập sự đạt yêu cầu thì đơn vị phải ký kết hợp đồng chính thức.
Nếu thực hiện đúng quy định, khi kết thúc thời hạn của hợp đồng thử việc 1 năm (từ tháng 6/2011 đến hết tháng 6/2012), mà đơn vị tiếp tục sử dụng ông Sung, thì từ tháng 7/2012, người đứng đầu đơn vị phải ký hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng lao động chính thức với ông Sung, với mức 100% tiền lương theo ngạch, bậc được xếp.
Thư Viện Pháp Luật