Bán đấu giá tài sản chung vợ chồng
Điều 25, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, quy định: "Hợp đồng bán đấu giá tài sản được ký kết giữa tổ chức bán đấu giá tài sản và người có tài sản bán đấu giá hoặc người đại diện của người đó". Khoản 6, Điều 2, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ghi rõ: Người có tài sản bán đấu giá là chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền bán tài sản, người có trách nhiệm chuyển giao tài sản để bán đấu giá hoặc cá nhân, tổ chức có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 219, Bộ luật Dân sự về sở hữu chung của vợ chồng, thì: 1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất; 2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; 3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; 4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của tòa án.
Còn Khoản 1, Điều 16, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định rõ: Tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất thì hợp đồng bán đấu giá tài sản được ký kết giữa các chủ sở hữu chung hoặc người đại diện của họ với tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy, trường hợp mà ông Nguyễn Văn Hùng hỏi là vợ chồng ông có tài sản sở hữu chung, muốn thực hiện bán đấu giá thông qua tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật, thì hợp đồng bán đấu giá tài sản được ký kết giữa các chủ sở hữu chung (gồm cả vợ và chồng, không phân biệt ai là chủ hộ gia đình) với tổ chức bán đấu giá. Nếu một trong hai người muốn ủy quyền cho người kia để đại diện tham gia giao kết hợp đồng thì cần thực hiện thủ tục ủy quyền hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Thư Viện Pháp Luật