Công ty không trả trợ cấp thôi việc có đúng luật?
Theo quy định tại Bộ luật lao động 2012 quy định về trợ cấp thôi việc như sau:
“Điều 48. Trợ cấp thôi việc
1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.
Căn cứ quy định tại khoản 3 Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết Bộ luật lao động 2012 “thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm cả thời gian thử việc.
Vì bạn không nói rõ bạn đã đóng bảo hiểm thất nghiệp được bao lâu, nên nếu tổng thời gian làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian mà bạn tham gia bảo hiểm thất nghiệp mà ra thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc từ đủ 1 tháng đến dưới 6 tháng thì sẽ được tính là ½ năm làm việc, từ đủ 6 tháng trở lên được tính 1 năm làm việc để tính thời gian hưởng trợ cấp thôi việc.
Có hai trường hợp nếu bạn chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 điều 48 bộ luật lao động 2012, hướng dẫn bổ sung tại khoản 1 điều 14 nghị định 05/2015/NĐ-CP thì sẽ không được hưởng trợ cấp thôi việc là đủ điều kiện nghỉ hưu và bị kỷ luật sa thải. Tuy nhiên bạn cần lưu ý, việc chi trả trợ cấp thôi việc được tiến hành cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên. Bạn giao kết hợp đồng với công ty từ 2/7/2015 thì phải đến 2/7/2016 mới đủ 12 tháng, thời điểm này bạn đã chấm dứt hợp đồng (tháng 3/2016) thì chưa làm việc đủ 12 tháng để thuộc vào đối tượng được hưởng trợ cấp thôi việc.
Thư Viện Pháp Luật