Chuyển nhượng đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng
- Điều 106 Luật Đất đai hiện hành quy định người sử dụng đất được chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi có đủ các điều kiện: a. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; b. Đất không có tranh chấp; c. Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; d. Trong thời hạn sử dụng đất.
Theo Khoản 2 Điều 66 Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất: 1. Kể từ ngày 1-1-2008, người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận mới được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này; 2. Trường hợp trước ngày 1-11-2007, người sử dụng đất đã nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận theo đúng quy định của pháp luật mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận và người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì vẫn được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất.
Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai hiện hành, các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất làm căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm: Giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15-10-1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính; Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15-10-1993, nay được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15-10-1993; Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật; Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất; bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật nêu trên và các thông tin ông Phạm Thành Long cung cấp, phải xét xem ông có thuộc diện được thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Khoản 2 Điều 66 Nghị định 84/2007/NĐ-CP không. Nếu như không, ông phải thực hiện các thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo pháp luật đất đai thì mới có thể thực hiện được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất của mình.
Thư Viện Pháp Luật