Được tòa án xác định là cha mới có quyền thăm con
Theo Điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Hướng dẫn chi tiết thi hành luật này, tại khoản 2 Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP của Chính phủ, con sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, thì được xác định là con chung. Như vậy, nếu con bạn đã thành thai trong thời kỳ hôn nhân và được sinh ra trong vòng 300 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án xử cho vợ chồng ly hôn có hiệu lực pháp luật, cháu bé được xác định là con chung của hai người. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có quyền đồng thời cũng có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc con chung hoặc lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định một người có phải là cha của một đứa trẻ hay không thường căn cứ vào giấy khai sinh của đứa trẻ đó. Do vậy, khi cháu bé được khai sinh mà trên giấy khai sinh phần tên người cha để trống hoặc là tên người khác mà không phải là bạn, trường hợp này pháp luật chưa thể xác lập cho bạn quyền thăm nom, chăm sóc cháu bé, nói cách khác pháp luật chưa công nhận bạn là cha cháu bé. Để được công nhận, theo quy định tại Điều 65 Luật HN&GĐ về xác định con, bạn phải làm đơn yêu cầu Tòa án xác định cháu bé là con bạn và bạn phải cung cấp các chứng cứ có liên quan. Trong trường hợp cần thiết, tòa án trưng cầu giám định gen và bạn phải nộp lệ phí giám định. Sau khi bản án, quyết định của tòa án xác định bạn là cha có hiệu lực pháp luật, kể từ thời điểm đó bạn mới có quyền thăm nom, chăm sóc cháu.
Thư Viện Pháp Luật