Muốn từ chối làm nhân chứng trong vụ án hình sự
Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về việc công dân khi nhận được “giấy mời” của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan công an nói riêng thì bắt buộc phải đến theo yêu cầu. Hơn nữa, trên thực tế hiện nay cơ quan công an khi cần làm rõ về một vụ việc thường sử dụng lẫn lộn giữa giấy mời và giấy triệu tập.
Theo thông tin cung cấp, bạn là người chứng kiến một vụ án hình sự về tai nạn giao thông nên bạn được cơ quan tiến hành tố tụng xác định là “người làm chứng”. Theo khoản 4 Điều 55 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, người làm chứng có nghĩa vụ sau đây:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
b) Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án.
Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự”.
Đối chiếu quy định vừa trích dẫn ở trên với trường hợp của bạn, do bạn được coi là người làm chứng trong một vụ án hình sự nên bạn phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của bạn gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.
Do đó, nếu bạn không thể đến theo đúng thời gian ghi trong giấy mời thì có thể làm đơn nêu lý do vắng mặt gửi lên cơ quan công an, và trong thời gian gần nhất bạn phải đến cơ quan ghi trong giấy mời để phối hợp làm rõ vụ việc.
Ngoài ra, bạn cũng cần lưu ý khi phối hợp cùng cơ quan có thẩm quyền, bạn cần khai báo trung thực những gìchứng kiến, không được khai báo sai sự thật. Trường hợp khai báo gian dối bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Thư Viện Pháp Luật